Bác Hồ kính yêu
   

Trang chủ

Cuộc đời hoạt động

Hồ Chí Minh-con người và phong cách

Những mẩu chuyện về Bác

Vàng là ở hai bàn tay lao động

Lòng yêu nước, ánh sángvà tinh thần quốc tế

Chim hồng dang rộng cánh bay xa

Đường về Pắc Bó

Châu Tự Do

Bác gọi

Bác đã dạy tôi yêu thương con trẻ

Kỷ niệm Bác trong nhà lao Phú Quốc

Chúc tết Bác, ngâm thơ Bác

Bác Hồ với nhân dân ta

Thực hiện di chúc của Bác

Thơ chúc tết của Bác

Những vần thơ về Chủ tịch Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh tên người sống mãi

Những hình ảnh về Bác

Bảo tàng Hồ Chí Minh

 

 

CHÂU TỰ DO

Chúng tôi ngược bờ sông Đáy về phố huyện Sơn Dương. Hai bên đường dọc theo nông trường chè Tân Trào, những bụi cây trinh nừ ngại nắng khép kín lại. Những con suối lũ dềnh lên ào ào cuốn những cành cây gãy chảy ra sông. Từ đây còn 12 kilômét nữa là đến Tân Trào - Thủ đô lâm thời của cách mạng Việt Nam thời trước khởi nghĩa, chúng tôi dừng chân nghỉ ở huyện lỵ.

Sơn Dương những ngày tiền khởi nghĩa gọi là châu Tự Do, cái tên gọi ấy có từ rằm tháng ba nǎm 1945. Ôn lại những ngày lịch sử chói lọi và đầy kinh ngạc ấy, người dân Sơn Dương còn nhắc nhở một buổi bình minh sáng tươi, đội Cứu quốc quân 3 hạ đồn Đǎng Châu lần thứ hai, giết tri phủ Đèo Vǎn Phú, bắt tri châu Hoàng Thế Tâm, giải phóng cả vùng cánh cung rộng lớn của thượng huyện. Đồng chí bí thư huyện ủy, người đã từng theo trung tướng Song Hào, kể cho chúng tôi nghe về một buổi sáng tinh mơ hai mươi lǎm nǎm trước, Sơn Dương ngày ấy nổi dậy bằng giáo mác và súng khai hậu cướp châu đường, phá kho thóc, bắt các hào lý nộp ấn, sắc và triện đồng. Từ đấy ủy ban nhân dân cách mạng châu Tự Do ra đời. Chính quyền cách mạng đầu tiên ở nước ta được thiết lập ngay tại một huyện nhỏ.

Lần từng bước đi trên con đường rải đá giữa huyện lỵ, dấu vết của những chiến công một phần tư thế kỷ trước và thành cũ Đǎng Châu, cỏ lan mặt đất vẫn còn đó, Đǎng Châu, cái thành đầy khủng khiếp của chế độ thực dân phong kiến miền núi, án ngữ trên ngã ba đường đi Tuyên Quang, Thái Nguyên, Vĩnh Yên đã kéo cờ trắng đầu hàng cách mạng sau những phút súng nổ quyết liệt của một phân đội Cứu quốc quân từ Khuổi Lịch (Tân Trào) kéo về.

Theo sách cũ Dư địa chí của Nguyễn Trãi trong ức trai di tập viết nǎm 1435 thì châu này thuộc phủ Đoan Hùng, ǎn vào Tuyên Quang Thừa Tuyên. Tự thuở xưa, Sơn Dương là một hùng trấn. Nơi ấy núi non hiểm trở, của cải dồi dào, thắng tích chẳng ít, dân khí ngang tàng, bao nhiêu lần quân Minh thèm muốn không chinh phục được. Trên 600 nǎm trước, Sơn Dương gọi là Đễ Giang châu, tức là châu sông Đáy. Sông Phó Đáy chảy qua Sơn Dương hàng chục dặm, về gặp sông Lô rồi cùng sông Hồng hội ở ngã ba Hạc.(1)

Trung tuần tháng 5 nǎm 1945, Bác từ Sơn Dương về Tân Trào. Các anh Song Hào cùng một số đồng chí đến đình Hồng Thái đón Bác. Hồng Thái có một mái đình nǎm gian dựng trên một khoảnh đất khá rộng. Một cây đa xum xuê với tám cành lớn ngả bóng mát che rợp mái đình. Hai mươi bốn cây cột lim và hai vế câu đối khắc song song trên đôi cột chính giữa đình: 

Đễ Giang tả bão linh nguyên hội
Ngọc tĩnh hữu triều thụy khí chung

Đôi câu đối ngợi ca cảnh kỳ vĩ nơi đây: Bên trái sông Đáy bao quanh, nguồn linh thiêng tụ về. Giếng Ngọc chầu bên phải, khí đẹp chung đúc. Sau đình Hồng Thái có bản làng và một cái giếng trong xanh như ngọc ở ngay đầu thôn, nhân dân thường gọi là giếng Ngọc. Hồng Thái là cửa ngõ của Tân Trào, xã Tân Trào mỗi bề dài ngót 8 kilômét, trên 50 kilômét vuông diện tích thì rừng già và núi đã chiếm đến quá ba phần tư. Cǎn cứ địa Tân Trào lấy sông làm hào, lấy núi làm lũy chở che vị trí chiến lược quan trọng này. Muốn về thủ đô khu giải phóng phải qua dòng sông Đáy và bốn con suối sâu. Hôm ấy vào giữa trưa hè , nắng chói, đồng chí Võ Nguyên Giáp dưa Bác về. Bác dừng lại trước đình ngắm cảnh vật. Những ngọn núi Nản Đen, Kẹm Him, Khao Nhì... vách dựng cao hàng trǎm mét, dây leo um tùm. Những dãy rừng lim, rừng phách hoa nở tím viền lấy xã Tân Trào. Xa xa, đỉnh núi Thia và dãy núi Hồng - cơ sở của các đồng chí Cứu quốc quân III từ nǎm 1943 - quay lưng về Bắc Thái làm địa giới tự nhiên giừa hai tỉnh Tuyên Thái. Bác ngắm nhìn dãy lịch - nơi có phong trào chống thuế của nhân dân thôn Khe Thuyền từ tháng 10-1943. Bác ngắm dòng sông khe nước. Những dòng khe xinh đẹp, uyển chuyển: đây khe Bòng, suối Thia, kia ngòi Sung, khe Cả chằng chịt dọc ngang vây quanh các bản đồng bào Tày, đồng bào Trại rồi chảy ra ngòi Thung nhập vào sông Đáy. Những ruộng lúa phì nhiêu, những vườn cây ǎn quả, bãi chuối xanh rậm bên những bờ sông, ven suối. Bác có vẻ hài lòng với cảnh núi non và dân cư ở vị trí xung yếu này. Bác cho nơi này là đất dụng binh được "tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ". ở đây có đường qua đèo De, đường đi Thanh La, đường về Minh Khai, và từ các nơi ấy ta có thể đi Bắc Thái, Cao Bằng, qua Vĩnh Yên, Phú Thọ, hoặc về tận Hà Giang, Yên Bái...

Hôm về Tân Lập (Tân Trào) Bác mặc áo chàm ngắn đã sờn, xẻ hông kiểu áo Nùng, vai vắt chiếc khǎn mặt bông, chân đi giày rơm đã rách có dây quai buộc. Bác đội mũ đen, tay cầm gậy nhỏ. Nǎm ấy râu Bác chưa bạc, nước da sương nắng sạm đen. Bác gầy, hai gò má nổi cao, nhưng đôi mắt vẫn sáng. Đồng bào kết bè đưa Bác sang sông (Lúc bấy giờ chưa có cầu treo trên sông Đáy). Bác về đến bản vừa lúc đồng bào nhen lửa thổi cơm chiều. Lão đồng chí Tiến Sự chỉ cho chúng tôi theo lối Bác bước lên nhà sàn. Hồi ấy, nhà cũ của đồng chí Tiến Sự có cầu thang xoay về phía Đông. Bác bước vào nhà, chào hỏi mọi người thân thiết như người cha đi lâu ngày, nay trở về thǎm con cháu.

Cu Khoát(2) thấy ông cụ hiền lành, phúc hậu, vui vẻ sà vào lòng, Bác xoa đầu âu yếm:
- Cháu đã đi học chưa?
- Thưa cụ chưa ạ? Đồng chí Tiến Sự trả lời thay.
- Cháu đã lớn, đi học được rồi đấy!
- Thưa, chưa mua được giấy, chưa xin được trường.
Bác nhìn quanh xóm, tỏ vẻ ái ngại về sự thiếu cơm, đói chữ của con em đồng bào các dân tộc. Bác chỉ một đồng chí vô tuyến diện đi theo Bác.
- Ngày mai theo chú này, chú cho sách và dạy cho.
Thế rồi cu Khoát chạy theo các chú bộ đội xuống sàn xem các chú mắc dây trời của đài vô tuyến điện để bắt liên lạc với các nơi.

Hồi ấy dân bản gọi Bác là "đồng chí già" hoặc "đồng chí cụ cũng có khi gọi là "đồng chí thượng cấp". Bà con trong bản thấy ông cụ đã cao tuổi, không biết từ bản nào về mà chǎm chỉ lạ thường. Đêm đêm cụ ít ngủ, làm việc đến khuya. Việc gì cụ cũng làm, ai ai cụ cũng thương yêu, chǎm sóc. Lúc gà rừng vừa vỗ cánh gáy chào rạng đông, cụ đã dậy, vác ống bương đi lấy nước dưới suối. Ông cụ quét nhà, ông cụ tưới rau, hoặc có khi đắp lại mương nước ở bờ ruộng. Làm xong những việc lặt. vặt ấy, cụ mới ngồi vào chiếu, bên bàn máy chữ đặt trên khúc gỗ để làm việc. Bác thường nghe đồng chí Hoàng Quốc Việt báo cáo tình hình công tác, hoặc đồng chí Vǎn(3) đến xin ý kiến. Tiếng máy chữ tí tách đều đều và có lúc rất khẩn trương. Cũng từ đây những lời hiệu triệu, những bản chỉ thị kêu gọi đồng bào đánh Tây, đánh Nhật, cướp chính quyền giành tự do. Những bức thư ký tên Nguyễn A'i Quốc tung khắp núi rừng, về trung du, xuống tận đồng bằng, truyền đi khắp nước.

Ban ngày bận việc, tối tối, Bác dành ít thì giờ gặp gỡ dân bản. Tiếng lành đồn xa, các gia đình quanh xóm đến thǎm "đồng chí già", nghe đồng chí kể chuyện đánh Tây, Nhật nhất là những lời khuyên bảo của đồng chí về việc tǎng gia, tiết kiệm, về học tập, về tình hình thời sự... Cách giáo dục của Bác bao giờ cũng nhẹ nhàng, nhưng rất sâu sắc. Buổi đầu tiếp xúc có một câu chuyện nhỏ mà dân bản vẫn nhớ mãi đến giờ.

Hôm đó là một đêm hè, Bác cùng các mế (mẹ) các cụ, các chị quây quần trò chuyện bên bếp. Chuyện vui Bác hỏi:
- Bà con ta có biết trên đời này cái gì quý nhất?
Mọi người thấy ông cụ nhanh nhẹn, vui tươi và hiền từ nên rất có cảm tình. Nhiều chị tranh nhau trở lời. Người thì nói "cái nhà quý nhất", kẻ thì cho "chiếc cày quý nhất", "con trâu quý nhất", có chị nói to:
- Thưa dồng chí thượng cấp, đồng bạc trắng(4) quý nhất. 
Tất cả đều đồng ý:
- Đồng bạc trắng là quý nhất!
Bác cười có vẻ đồng tình, nhưng Bác hỏi thêm:
- Đồng bạc quý nhất thì cất giấu ở đâu cho kín?
- Thưa "đồng chí già" giắt ở mái nhà ạ!
Một vài ý kiến khác:
- Chôn dưới đất ạ?
- Cài trên đầu cũng kín ạ?
Nhiều câu trả lời làm cuộc trò chuyện thêm sôi nổi. Bác thong thả phe phẩy chiếc quạt, và giải thích:
- Đồng bạc là quý thật, muốn giữ kín, chôn giấu chỗ nào cũng được, mất có thể tìm, và làm ra được. Nhưng cán bộ, bộ đội Cứu quốc quân về đây hoạt động, họ còn quý hơn tiền bạc. Có họ thì có tất cả. Họ là người cùng ta đánh Tây, đánh Nhật, là tôi tớ của dân. Nước độc lập tự do thì nhà cửa, trâu bò, cày bừa, tiền bạc đều có. Vậy ta phải giữ kín họ.
Một bà mẹ thắc mắc: 
- Làm thế nào giữ kín được, thưa cụ?
Bác im lặng một lúc, xem mọi người còn ai hỏi thêm điều gì không, cuối cùng Bác bảo:
- Muốn giữ kín họ phải thực hiện "ba không". Có người lạ mặt thì nói "không nghe", "không thấy" hoặc "không biết". Có như vậy mới bảo vệ được cán bộ, bảo vệ được khu cǎn cứ, Tất cả mọi người đều cười vui rung cả sàn nhà, và cứ thế một vài đêm sau cả bản họp lại để nghe "đồng chí già" trò chuyện một vấn đề khác....
Các cụ Hương, cụ Vượng ở Khuổi Lịch - nơi đội Cứu quốc quân 3 ra đời tháng 12-1944 - cũng đến nghe Bác nói chuyện. Các cụ rất ái mộ Bác: "Dân mình phúc bằng trời mới có được ông cụ nhiều tuổi, tốt bụng và anh minh như vậy, ông cụ dắt dẫn ta đánh Tây, đánh Nhật nhất định là phải thắng. Việt Nam mình nhất định độc lập!"

Và cũng từ đấy, cán bộ, cơ quan Trung ương, rồi Đại hội, nhà in, máy móc di chuyển đi về nườm nượp suốt đêm nhưng bí mật vẫn được giữ kín tuyệt đối. Lòng dân ở đây đối với Bác, với cách mạng, với A.T.K (an toàn khu) thật vô bến bờ. Đó là tường lũy vững chãi nhất cho thủ đô lâm thời.

Vào một ngày cuối tháng 5 nǎm 1945, giặc Nhật cho 500 quân cùng lừa ngựa chở súng đạn bất ngờ tiến đánh Tân Trào, hòng tiêu diệt đầu não và lực lượng cách mạng non trẻ của ta. Tân Trào lúc bấy giờ như một chiếc gai lưỡi hùm trước mắt chúng. Mặc dầu hôm đó ta chưa kịp bố trí, nhưng nhân dân đã hết lòng chở che, báo cho đồng chí Môn, đồng chí Thâm và đồng chí Long Giang đưa quân ra chặn đánh ở các ngả và ở đèo Chắn. Nhân dân hết lòng ủng hộ bộ đội chiến đấu. Giặc Nhật đành phải bỏ lại dưới chân đèo nhiều xác chết, rồi hoảng sợ rút lui. Và từ đó, chúng không dám bén mảng đến đất Thánh của cách mạng nữa.

ở bản được vài tuần lễ, một hôm Bác gọi đồng chí Tiến Sự đến Bác rỉ tai nói nhỏ:
- Chủ nhiệm ngày mai có bận gì không? Chủ nhiệm nhớ mượn cho vài cái rìu, vài con dao nhé!
Thế rồi sáng hôm sau, lúc đồng chí Tiến Sự còn ngái ngủ, Bác đã giục:
- Chủ nhiệm ơi, dậy đi thôi! Ta vào rừng làm lán.
Sau vài ngày, Bác cùng đồng chí Tiến Sự, đồng chí Cát tìm địa thế, chặt cây, cắt tranh làm nhà ở. Rồi một sớm, Bác dời về nhà mới...

Vì sự cảnh giác của Bác "lai vô ảnh, khứ vô hình" nên khi về Hà Nội, Bác cho đốt cả lán cỏ bên suối. Giờ đây trong khu rừng Nà Lừa chỉ còn lại tảng đá, nơi xưa kia Bác dùng làm bàn ǎn. Và ở đây, ngày nay một hồ nước chứa hàng chục vạn khối, cùng một công trìilh thủy điện mọc lên. Nhân dân Tân Trào đời đời ghi nhớ công lao của Bác. Đồng chí Kim Sơn ở bảo tàng Tuyên Quang có nhờ đồng chí Tiến Sự nhớ kỹ lại cǎn nhà Bác ở lúc đó để phục chế lại. Hiện nay nhà chưa làm xong, nhưng ở bảo tàng Hồng Thái đã có mô hình cǎn nhà lá, nửa sàn, có bảy nấc thang tre với hai gian đơn sơ, trống trải... đây là "Phủ Chủ tịch lâm thời" -"dinh" của vị Chủ tịch nước. Và chừng ấy cũng đủ nói lên cuộc sống thanh đạm giản dị của Bác, trong những ngày Bác ở Tân Trào.

Chúng tôi men theo ngòi Khuôn Pén, qua Khao Nhì, về ghé thǎm đình Tân Trào.
Đình Tân Trào là một ngôi đình nhỏ không lợp ngói mà lợp bằng cọ. Nhưng chính nơi đây đã xảy ra một sự kiện vô cùng trọng đại trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta. 14 giờ 30 phút ngày 16-8-1945 Đại hội đại biểu Quốc dân nhóm họp ở đây. Trên 60 đại biểu khắp các tỉnh ở ba miền Trung, Nam, Bắc, Việt kiều ở Xiêm, Lào kéo về chật cả ngôi đình bé nhỏ, mở hội non sông. Đồng chí Trường Chinh báo cáo trước Quốc dân Đại hội về vấn đề chuẩn bị Tổng khởi nghĩa và thành lập ủy ban giải phóng dân tộc. Đại hội cử Bác làm Chủ tịch ủy ban. Đó là Chính phủ lâm thời và là Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên của ta. Tại nơi đây, cụ Hồ Chí Minh lần đầu ra mắt đại biểu quốc dân. Các chiến sĩ Giải phóng quân bắn ba loạt súng chào mừng, và ngay chiều hôm đó, dưới gốc đa Tân Trào, nắng xiên qua vòm lá, đồng chí Võ Nguyên Giáp đứng trên mô đất cao đọc bản Quân lệnh số 1 của ủy ban khởi nghĩa. Tân Trào từ đấy thật sự trở thành Thủ đô lâm thời và là đại bản doanh của quân cách mạng. Trước cơ hội ngàn nǎm có một, Việt Nam giải phóng quân tiến về chiếm Thái Nguyên. Các đơn vị giải phóng quân từ các chiến khu kéo về các tỉnh cùng nhân dân nhất tề nổi lên giành lấy chính quyền, mệnh lệnh Tổng khởi nghĩa truyền đi từ Tân Trào ngày 18-5-1945, thì Hà Nội khởi nghĩa ngày 19-8, Huế ngày 23-8 và Sài Gòn ngày 25-8. Chỉ trong vòng một tuần lễ, nhân dân ta đã đứng lên giải phóng toàn bộ đất nước. Sức lay trời chuyển đất của Đại hội Tân Trào là thế. "Dù đốt cháy dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập" lời Bác như chim bằng giang rộng cánh, đó là lời của tổ tiên 4000 nǎm giục ta lên đường xông trận.

Chiều hôm đến Tân Trào, đứng trên chiếc xe bánh xích ủi đất mở đường, chúng tôi ngắm mãi ngôi đình làng cũ, mái lá vừa được lợp lại, nắng thu nhuộm vàng vẳng nghe như từ trong nhang án giữa đình vọng lên lời hiệu triệu của Bác bao nǎm trước.

Cây đa Tân Trào giờ đây vẫn xanh tốt. Chỗ mảnh đất dưới gốc đa Tân Trào, nơi Bác thường nói chuyện với cán bộ học sinh trường quân chính giờ đây nhân dân địa phương dựng lên một nhà trẻ rộng thoáng, còn thơm mùi gỗ mới.

Ngày trước nơi đây Bác luyện quân, chỉnh cán, thì giờ đây thực hiện Di chúc Bác, Đảng bộ Tân Trào đang vun trồng cho thế hệ mai sau. Tân Trào đã có trường cấp hai, có bệnh xá, nhà hộ sinh, có loa truyền thanh... "Có độc lập tự do, thì có tất cả những điều Bác giải thích cho đồng bào Tân Trào ngày xưa, nay thành sự thực.

Để ghi nhớ công ơn sâu nặng của người Cha, nhân dân Tân Trào đang xây nhà lưu niệm về Bác. Bê tông nền nhà vừa đổ xong, những giàn giáo dựng dưới những cành đa để xây tường, dựng cột. Đồng chí Trung Nguyên, chủ nhiệm hợp tác xã Tân Trào cho chúng tôi hay còn bốn vạn hai nghìn viên gạch nữa là xây xong khu nhà lưu niệm về Bác. Nhà lưu niệm rộng 27ó mét vuông, ở đây sẽ trưng bày trên 400 hiện vật về Bác, về Nhà nước dân chủ đầu tiên, về đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, v.v... Trong đó có khẩu súng kíp, trước khi về Hà Nội, Bác trao cho đồng chí Tiến Sự và cǎn dặn đồng chí Sự dùng súng đó để bắn quân thù, bảo vệ chính quyền cách mạng.

(1)Hạc Trì (Bạch Hạc Việt Trì)
(2) Con đồng chí Tiến Sự, sau làm công an huyện Sơn Dương
(3) Tức đồng chí Võ  Nguyên Giáp
(4) Đồng bạc Đông Dương bằng bạc thật