Bác Hồ kính yêu
   

Trang chủ

Cuộc đời hoạt động

Hồ Chí Minh-con người và phong cách

Những mẩu chuyện về Bác

Bác Hồ với nhân dân ta

Đi làm ruộng với nông dân

Tình thương của Bác

Nồng nàn tình yêu dân, yêu Tổ quốc

Tình cảm lớn lao của Bác Hồ với thương binh

Em đội viên mắt sáng

Thực hiện di chúc của Bác

Thơ chúc tết của Bác

Những vần thơ về Chủ tịch Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh tên người sống mãi

Những hình ảnh về Bác

Bảo tàng Hồ Chí Minh

 

 


TÌNH THƯƠNG CỦA BÁC

(Ghi theo lời đồng chí Đào Duy Hi)

Hà Tĩnh - vùng "cán xoong" của khu 4 cũ - những ngày tháng 3 nǎm 1966, chia lửa với miền Nam, phải chịu đựng bao ác liệt đánh phá của không lực Hoa Kỳ.

Dã man nhất, chúng rải thảm bom B.52 vào các làng mạc hiền hòa, bệnh viện, chùa chiền, nhà thờ và trường học... Trường cấp 2 Hương Phúc thuộc huyện Hương Sơn là mục tiêu đánh phá của chúng.

Vào một ngày trung tuần tháng 3-1966, hàng đàn quạ Mỹ lồng lộn ném bom "tọa độ" vào trường. Buổi sáng, chỉ mỗi lớp 6A, vừa vào tiết học vǎn, 45 học sinh chỉ có một em sống sót. Hôm ấy, học trò gái Nguyễn Thị Mão vì có việc nhà xin phép đến muộn, nên em thoát khỏi bị vùi lấp dưới hố bom của bầy quỷ dữ.

Bác Hồ được tin đau thương này, đã cho mời Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Vǎn Huyên lên cho Bác biết tình hình cụ thể giặc Mỹ leo thang hủy diệt các trường học.

Đoàn chúng tôi gồm: em Nguyễn Thị Mão, học sinh lớp 6; thầy giáo chủ nhiệm Thái Vǎn Nhậm, cô Trương Thị Vi, đại diện gia đình học sinh và thầy trưởng ty giáo dục Lê Sĩ Nghĩa, cấp tốc về Hà Nội để gặp Bác theo lệnh của Bộ. Bác bận trǎm ngàn việc lớn của đất nước, mà không quên một lớp học nhỏ đau thương - nơi thâm sâu xa vời -trong trǎm ngàn trường lớp khác. Chúng tôi theo Bộ trưởng vào Ba Đình báo cáo với Bác sự việc tàn bạo của giặc Mỹ ở Hương Sơn vừa xảy ra. Lúc chúng tôi đến, Bác chờ sẵn ở sảnh đường phòng khách Phủ Chủ tịch. Thầy trò chúng tôi có ngờ đâu Người lại trân trọng và chu đáo với anh chị em chúng tôi như vậy! 
Bác thân mật hỏi thǎm từng người. Tôi thay mặt đoàn thưa cùng Bác giặc Mỹ đã trút bom hủy diệt toàn bộ ngôi trường. Hôm ấy, may là các lớp khác học buổi chiều. Lớp sáu chỉ còn mỗi một em sống sót là em Mão. Bác bảo Mão đến ngồi kề Bác. Bác nhẹ nhàng vuốt tóc cháu gái bé bỏng, như ông ngoại vỗ về an ủi cháu. Mấy lần câu chuyện tôi kể phải dừng lại vì Bác rút khǎn tay lau mắt.

Đến lượt cô Trương Thị Vi, người thân của học sinh bị nạn, đứng lên: 
- Thưa Bác, cháu đại diện cho phụ huynh học sinh, em ruột cháu bị lấp vùi trong cǎn hầm, ngạt thở chết. Cha già không đi được, cháu đi thay.
Bùi ngùi lặng im một lúc, Bác hỏi:
- Cháu có biết phụ huynh là gì không?
Thưa Bác, phụ huynh là cha mẹ ạ!
Bác ôn tồn giảng giải thêm:
- Phụ huynh là cha anh. Ngày xưa phong kiến trọng nam khinh nữ, nên chỉ nói đến cha anh, xem nhẹ vai trò của mẹ. Hôm nay, Bác dặn chú Huyên là ta có từ cha mẹ thì cứ gì phải dùng phụ huynh. Còn học sinh thì ta dùng học trò cũng được. Từ nào ta thiếu thì hãy mượn. Bộ trưởng Nguyễn Vǎn Huyên đỡ lời thưa Bác:
- Chúng cháu đã bắt đầu dùng "Hội cha mẹ học sinh".
Còn phụ huynh học sinh thì dùng cha mẹ học trò, hoặc gia đình học trò... ạ? .
Nghe đến từ gia đình, Bác nhắc nhở và nhấn mạnh:
Nhân đây Bác nhắc các thầy cô giáo là, giáo dục ở nhà trường phải biết kết hợp với gia đình. Vì gia đình là tế bào của xã hội. gia đình tốt thì xã hội, nhà trường mới tốt, mới dạy tốt, học tốt được? Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Gia là nhà, đình là sân. Theo nghĩa cũ thì gia đình chỉ giới hạn hẹp hòi trong nhà, ngoài sân thôi. Nghĩa là chỉ lo cho những người trong nhà mình ấm no, yên ổn. Ngoài ra ai nghèo khó mặc ai. Như thế là chưa đủ. Theo nghĩa mới thì gia đình rộng rãi hơn, tốt đẹp hơn. Thí dụ: Những người lao động trong một nhà máy, một cơ quan, trường học... đều phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em trong một gia đình. Rộng hơn nữa, thì có đại gia đình các dân tộc Việt Nam và "công nông thế giới đều là anh em".
Rồi Bác quay sang hỏi cháu Mão:
- Cháu làm được những việc gì giúp cha mẹ, gia đình?
- Thưa Bác, cháu gánh nước, gánh lúa, cấy hái được ạ.
- Cháu gánh được bao nhiêu cân?
- Dạ thưa, được ba mươi ạ!
- Cháu gặt hái, cấy được là giỏi. Bác khen cháu vừa học vừa giúp gia đình. Nhưng tuổi nhỏ làm việc nhỏ, cháu đừng gánh nặng quá. Mười một tuổi như cháu gánh ba mươi cân là không nên!
Bác lại hỏi đồng chí Nghĩa, Trưởng ty Giáo dục:
Hà Tĩnh của chú được bao nhiêu thầy cô, học trò giỏi?
Anh Nghĩa không chuẩn bị, hơi lúng túng. Bác nhìn sang đồng chí Bộ trưởng, Bộ trưởng cũng chưa được báo cáo, nhưng nhanh trí lấy chân khều nhẹ vào chân tôi - có ý nhờ tôi trả lời hộ vì gần đây tôi được Vǎn phòng Bác chuyển đến sáu Giấy khen, Huy hiệu Hồ Chủ tịch và sáu phần quà tặng giáo dục Hà Tĩnh, nên tôi mạnh dạn thưa:
Thưa Bác, Hà Tĩnh có hai giáo viên và bốn học trò được tuyên dương và thưởng Huy hiệu Bác.
- Hà Tĩnh có 82 vạn dân mà chỉ có chừng ấy thầy cô dạy giỏi, học trò giỏi là quá ít. Bác nhắc các cô chú về phải nhân rộng ra toàn ngành, thi đua với Bắc Lý dạy tốt, học tốt nhiều hơn nữa. Rồi Bác dặn dò phải có kế hoạch đào hầm, che chắn và phân tán các trường đại học về nông thôn bảo đảm an toàn cho thầy trò.
Chúng tôi quyến luyến không dám chia tay Bác. Bác chia quà cho từng người một và bảo gói đem về. Duy chỉ có Bộ trưởng Nguyễn Vǎn Huyên không dám nhận. Bác nhắc phần chú Huyên sao để lại.
- Thưa Bác, cháu không còn con nhỏ, chúng ra riêng cả.
- Thì chú mang về cho thím vậy?
Cả buổi họp giờ mới dám cười, và chúng tôi đã biến đau thương thành hành động, thi đua với Bắc Lý "dạy tốt, học tốt".