Chương 3
NGUYỄN
KHUYẾN
(1835-1909)
Chương 3
NGUYỄN
KHUYẾN
(1835-1909)
I.
CUỘC ĐỜI, THỜI ĐẠI
VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
Nguyễn
Khuyến sinh năm 1835, tại làng Hoàng Xá, huyện Ư yên
Nam Định. Lớn lên sống ở làng Yên Đỗ,
huyện B́nh Lục, tỉnh Hà Nam. Ông Mất ngày 24/2/1909.
Nguyễn
Khuyến nổi tiếng là một người thông minh,
hiếu học.
Năm
1864, Nguyễn Khuyến đi thi Hương và đỗ
giải nguyên ở trường Nam Định.
Năm
1871, Thi Hội lần hai, đỗ Hội nguyên và thi Đ́nh
đỗ Đ́nh nguyên. Ông từng thi đỗ Tam nguyên nên
người ta gọi Nguyễn Khuyến là Tam nguyên yên Đỗ
và làm quan dưới riều Tự Đức.
Nguyễn Khuyến là người có phẩm chất
trong sạch, mặc dù ra làm quan nhưng nổi tiếng là
thanh liêm, chính trực. Nhiều giai thoại kể về
đời sống đời sống và sự gắn bó
của Nguyễn Khuyến đối với nhân dân.
Ông
là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc
trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.
Quế sơn thi tập khoảng 200 bài thơ
bằng chữ Hán và 100 bài
thơ bằng Chữ Nôm với nhiều thể loại khác
nhau . Có bài tác giả viết bằng chữ Hán rồi
dịch ra tiếng Việt, hoặc ngược lại, ông
viết bằng chữ Việt rồi dịch sang chữ Hán.
Cả hai loại đều khó xác định v́ nó
rất điêu luyện.
Trong
bộ phận thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà
thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ t́nh. C̣n trong thơ
chữ Hán th́ hầu hết là thơ trữ t́nh. Có
thể nói trên hai lĩnh vưcï
Nguyễn Khuyến đều thành công.
Nguyễn
Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ
đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn nên
giấc mơ trị quốc b́nh thiên hạ của ông không
thực hiện được.
Lúc
này Nam kỳ rơi vào tay giặc Pháp. Năm 1882, Pháp
bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, chúng
tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Hàm
Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng
ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần
Vương tan ră.
Có
thể nói, sống giữa thời kỳ
các phong trào đấu tranh yêu nước bị
dập tắt, Nguyễn Khuyến bất lực v́ không làm
được ǵ để thay đổi thời cuộc
và cũng không cam tâm làm tay sai cho Pháp nên ông xin cáo quan
về ở ẩn. Từ đó dẫn đến tâm
trạng bất măn, bế tắc của nhà thơ.
II. NỘI DUNG THƠ VĂN
NGUYỄN KHUYẾN:
1.Tấm ḷng yêu nước thiết tha sâu nặng: |
1.1.
Tư tưởng yêu nước của Nguyễn
Khuyến:
Tư
tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến trước
hết gắn kiền với tư tưởng trung quân.
Đây là một tư tưởng
yêu nước hết sức chân chính tiến
bộ. Nguyễn Khuyến vừa là nhà nho vừa là
một ông quan từng hưởng bổng lộc của
triều đ́nh nên tư tưởng trung quân đậm
nét. Trong Di chúc, ông thể hiện rơ quan điểm
của ḿnh:
Khi
đưa Thầy con rước đầu tiên
Cờ
biển vua ban ngày trứơc
Sống
giữa thời kỳ nước mất nhà tan, Nguyễn
Khuyến không đành nh́n đất nứơc rơi vào
tay giặc, lại không cam tâm ở lại triều đ́nh
để làm bù nh́n nên ông quyết định xin cáo quan
về ở ẩn. Ḷng
Nguyễn Khuyến từng dạt dào bao
ư định chua xót về quyết định này:
Khứ
quốc khởi vô bằng bối tại,
Quy
gia vị tất tử tôn hiền?
(Cảm
tác)
Dịch
nghĩa:
Bỏ
chức há không bạn bè ở lại
Về
nhà vị tất con cháu đă khen thay?
Về
sau, thời cuộc biến chuyển, nhiều người
tiếp tục từ quan. Nguyễn Khuyến thấy
rất rơ họ không phải là kẻ bất tài, mà trái
lại, đó là những kẻ dũng thoái
:
Khả
hạnh chư quân năng dũng thoái,
Vị
ưng nhất chức tẫn phi tài
Bách
niên tứ hà vi giả,
Ngô
ấp khâu lăng diệc mỹ tai!
(Vũ
hậu xuân túy cảm thành)
Dịch
nghĩa:
Đáng
mừng các bạn mạnh dạn dám lui về,
Đâu
phải là đối với chức vụ ḿnh không làm
nổi
Cuộc
đời trăm năm xe ngựa có ra tṛ ǵ,
Mà
ở quê chúng ta g̣ núi vẫn tươi đẹp
lắm
(Cảm
hoài sau bữa chén xuân sau cơn mưa )
Sau
khi cáo quan, Nguyễn Khuyến sống ở làng quê và xem
quê hương như chiếc nôi, chỗ dựa vững
chắc ch cuộc sống b́nh dị của ḿnh. Ông
sống khiêm tốn, trong sạch, giữ tiết tháo, chan
ḥa với mọi người. Ông thường làm các bài
thơ ngâm vịnh ca ngợi vẻ
đẹp của các loai hoa, ca ngợi công dụng các loài
cây, qua đó muốn nói đến cái đức của
ḿnh.
Nguyễn
Khuyến c̣n nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn
của con người nhằm khẳng định phẩm
chất trong sạch của ông. Ông quan niệm:
Ngoại
mạo bất cầu như mỹ ngọc
Tâm
trung thường thủ tự kiên kim
Lời
ca ngợi tiết tháo của người đàn bà đáng
thương trong bài thơ Mẹ mốc của Nguyễn
khuyến có cái ǵ giống như sự quyết tâm
của nhà thơ:
Sạch
như nước, trắng như ngà, trong như tuyết.
Mảnh
gương trinh vằng vặc quyết không nhơ.
Nguyễn
Khuyến là người coi trọng danh dự và khí
tiết nên nhiều lần nhà thơ từng trăn
trở về vấn đề này:
Thế
đồ kim hựu đa kha khảm,
Lợi
cục nan năng quả oán vưu.
Vị
ngă phất tu chung hữu khích,
Thức
nhân thỏa diện tích bằng ưu.
(Tiểu
thán)
Dịch
nghĩa:
Trên
đường đời, nay lại gặp nhiều
bứơc gập gềnh,
Trong
cuộc đời khó giữ được ít lời oán
trách.
Kẻ
phẩy râu cho ḿnh, rốt cuộc cũng gây nên hiềm
khích,
Người
ta nhổ vào mặt ḿnh chùi đi, đời xưa c̣n
cho là đáng lo.
(Vài
lời than)
Có
thể nói, hành động ở ẩn của Nguyễn
Khuyến cũng là cách để nhà thơ giữ
phẩm chất của ḿnh. Nhiều bài thơ tiêu
biểu có tính chất triết lư cao: Di chúc, Vườn Bùi
chốn cũ, Vịnh cây tùng, Cây lược đồi
mồi, Mẹ Mốc, Xuân dạ lân nga, nhân tặng
nhục, Tiểu thán...
1.2.
Sự quan tâm lo lắngcho đất nước:
Thể
hiện qua nỗi đau của nhà thơ khi không làm
được ǵ để thay đổi thời
cuộc. Lời thơ thường đượm
buồn, đầy nước mắt khi nói về đất
nước:
Đời
loạn người về như hạt độc
Tuổi
già h́nh bóng tựa mây côi.
(Cảm
tác)
Sách
vở ích ǵ cho buổi ấy
Aùo
xiêm nghĩ lại thẹn thân già
(Ngày
xuân dặn các con)
H́nh
ảnh quê hương đất nước xuất
hiện trong thơ ôngkhi trực tiếp, khi gián tiếp,
khi cụ thể nhưng đều dưới dạng
trữ t́nh ảm đạm của nhà thơ:
Cố
quốc sơn hà chân thảm đạm
(Hung
niên)
Nhất
độ giang sơn nhất bạc đầu
(Thu
tứ)
Nhà
thơ từng mượn tiếng cuốc kêu
để thể hiện tâm trạng nhớ nước
da diết, khắc khoải của ḿnh. Bài thơ Cuốc
kêu c ảm hứng như một lời nỉ non tâm
sự, từng làm xao xuyến tâm hồn bao thế hệ
khi gợi nhớ non sông.
Nói
chung, âm điệu trong phần lớn thơ trữ t́nh
của Nguyễn Khyến là buồn. Nghe tiếng hát
giữa đêm khuya hay tết đến, xuân về đều
khiến nhà thơ buồn tê tái:
Xuân
về ngày loạn c̣n lơ láo
Người
gặp khi cùng cũng ngất ngơ,
2. Thái độ phản kháng đối với xă hội thực dân nửa phong kiến |
2.1.Đối
với thực dân Pháp:
Đả
kích những việc làm gây tiếng vang ầm ĩ lúc
bấy giờ, lên án những thủ đoạn bóc
lột sức người, sức của của nhân dân.
Bọn chúng đă đẩy hàng vạn người dân vô
tội đến chốn ma thiêng nước độc. Bài
thơ Hội Tây, Hoài cổ, Văn tế Cơ ri vi e(*)â…
đă phản ánh thực trạng đó bằng bút pháp
hiện thực trào phúng sâu sắc:
Hỡi
ôi!
Ông
ở bê Tây,
Ông
qua bảo hộ.
Cái
tóc ông quăn,
Cái
mũi ông lơ,
Đít
ông cưỡi lừa,
Miệng
ông húyt chó,
Lưng
ông đeo súng lục liên,
Chân
ông đi giày có mỏ,
Ông
dẹp cờ đen
Để
yên con đỏ.
Ai
ngờ:
Nó
bắt được ông,
Cái
đít ông đó.
Khốn
khổ thân ông
Đéo
mẹ cha nó
2.2.
Đối với bọn quan lại, bọn me Tây, gái
điếm:
Nguyễn
Khuyến từng làm quan nên đă thấy rơ hiện
thực quan trường và thế giới khoa bảng nói
chung là đổ nát và thảm hại.
Ng̣i
bút ông đă vạch trần nhiều mặt xấu xa
thối nát của bọn quan lại nào là bất tài, vô
dụng, dốt nát chỉ là thứ phỗng đá không hơn
không kém, trơ trơ trước sự nguyền rủa
của dân.
Thái
độ của Nguyễn Khuyến rất dứt khoát. Ông
mắng chúng không kiêng nể. Bằng lối nói mát
chửi mát theo kiểu Việt Nam Nói ngọt mà lọt
đến xương, Nguyễn Khuyến đả kích,
châm biếm xỏ ngầm rất thâm độc. Thậm
chí khi cần, ông cũng chuyển roi quất mạnh
bằng các biện pháp nghệ thuật độc đáo
như chơi chữ, nói láy, dùng từ đa nghĩa, dùng
âm của chữ Hán chuyển sang từ Việt.
Bồ
chứa miệng dân chừng bật cạp,
Từ
vàng sao chẳng luôn từ bạc
Không
khéo mà roi nó phết cho
(Bồ
tiên thi)
Các
bài thơ tiêu biểu: Ông phỗng đá, Lời vợ người
hát chèo, Hỏi thăm quan tuần bị
mất cướp, Bồ tiên thi, tặng ông Đốc
học Hà Nam đều là những bài thơ vạch
mặt chỉ tên những tên quan bất tài, hống hách
bằng thái độ châm biếm tố cáo sâu sắc.
Trong
bài thơ chữ Hán Quá quận công Hữu Độ sinh
từ hữu cảm là thái độ khinh bỉ, mỉa
mai của Nguyễn Khuyến đả kích tên Nguyễn
Hữu Độ, sau khi hắn chết, đi qua sinh từ
của hắn, nhà thơ nghĩ:
Công
tại, tứ thời tập quan đới,
Đắc
dự giả hỉ, bất dự bi.
Công
khứ, quan đới bất phục tập,
Hương
hỏa tịch tịch hoà ly ly.
Dản
kiến đệ nhị vô danh công,
Triêu
tịch huề trượng lai vu ty.
Trần
gian hưng phế đẳng nhàn sự,
Bất
tri cửu nguyên thùy dữ quy?
Dịch
nghĩa:
Khi
ông c̣n th́ áo mũ cân đai bốn mùa tấp nập,
Kẻ
được dự vào đó th́ mừng, kẻ không
được dự th́ buồn,
Sau
khi ông mất rồi th́ không thấy mũ áo xúm xít
lại nữa,
Hương
lửa vắng tanh, lúa mọc rườm rà.
Chỉ
thấy có ông Thứ nh́ không tên
Sớm
sớm chiều chiều chống gậy vào ngôi nhà
ấy.
Ở
đời có lúc thịnh, lúa suy, đó là việc thường,
Không
biết dưới chín suối bây giờ ông theo ai?
(Cảm
nghĩ lúc qua sinh từ quận công Nguyễn Hữu Độ)
Nhưng
có lẽ đả kích bọn quan lại cay độc
nhất là khi nhà thơ liệt chúng ngang hàng Vợ
bợm chồng quan danh phận đó (Đĩ Cầu Nôm)
dễ làm ta liên tưởng đến câu tục
ngữ mèo mả gà đồng, là những tên không ra ǵ.
Đặc
biệt, ng̣i bút của Nguyễn Khuyến tỏ ra không
khoang nhượng khi viết về bọn me Tây, gái điếm.
Trong một vế câu đối Mừng cô Tư Hồng
ông viết:
Có
tàn, có tán, có hương án thờ vua danh giá lẫy
lừng ba mươi sáu tỉnh.
Ở
một câu đối khác:
Thôi
cũng đừng cơng rắn cắn gà nhà, phong lưu chú
Bát, phú quư d́ Tư, mây nổi đă từng qua trước
mắt
Có
thể nói, cũng như các nhà thơ thuộc khuynh hướng
hiện thực tố cáo giai đoạn này, Nguyễn
Khuyến đă bám vào hiện tượng cụ thể
để đả kích. Từng con người, từng
hiện tượng và những sự việc lố lăng
trong xă hội đều bị vạch trần và thể
hiện rơ phong cách độc đáo của ông.
2.3.Đối
với khoa danh, khoa giáp thời ấy:
Cũng
bị lên án khắc nghiệt v́ những tên quan lại
đều xuất thân từ khoa bảng nhưng khoa
bảng lúc bấy giờ lại mục nát, suy đồi.
Nho sĩ không c̣n sĩ khí, uy thế như xưa nữa.
Thế nhưng nhà Nguyễn nẫn cố duy tŕ ba kỳ
thi: Thi Hương , thi Hội, thi Đ́nh nên đă sinh ra
những ông Nghè, ông Cống. V́ vậy, sự tương
phản càng rơ nét.
Nguyễn
Khuyến phê phán nhân tài của xă hội chỉ là
những người không ra ǵ. Có danh nhưng không
thực. Mặc dù:
Cũng
gọi ông Nghè có kém ai
Nhưng
ông lại tiếc rẻ:
Chiếc
thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái
giá khoa danh thế mới hời
Ấy
thế c̣n ra dáng đường bệ:
Ghế
tréo lộng xanh ngồi bảnh chọe
Bài
thơ gợi ra mối liên tưởng tới thân
phận những kẻ khoa bảng, bọn quan lại
ở thời kỳ nước mất, nhà tan. Đạo nho
sắp đến ngày mạt vận đang cơn hấp
hối nhưng nhà Nguyễn vẫn cho diễn lại cái
tṛ lều chơng thêm vài chục năm để đào
tạo tiếp tay sai phục vụ cho bộ máy bù nh́n
của chúng.
Ông
mai mỉa cảnh khoa cử suy đồi, đạo đức
của kẻ siơ bị đánh mất trước
tiền tài và danh vọng. Bài thơ Thầy đồ ve gái
goá là một ví dụ tiêu biểu:
Ở
góa thế gian nào mấy mụ
Yêu
thầy cũng muốn cho thầy dạy
Dạy
cháu nên rồi mẹ cháu ngây.
3.1.
Ḷng yêu thiên nhiên và cảnh vật Việt Nam:
Nguyễn
Khuyến cáo quan về quê nhưng ông không hề thoát ly
hiện thực. Lúc nào ông cũng say sưa chan hoà với
quê hương. Cảnh sắc được ông miêu
tả hết sức chân thật và sống động.
-
Tả cảnh bốn mùa, đặc biệt là cảnh mùa
thu thật sắc sảo, đậm nét. Cảnh mùa thu
trong thơ Nguyễn Khuyến không hề ước
lệ, trang trọng, khuôn sáo như trong văn chương,
sách vở mà chỉ là những cảnh gần gũi, quen
thuộc như trời thu, gió thu, ao thu, trăng thu, lá thu
… được tác giả thi vị hoá hết sức tài
t́nh. Ba bài thơ Thu ẩm, Thu
điếu, Thu vịnh đă gợi được cái
hồn, cái thần, cái tinh tế của cảnh vật màu
thu, là ba bức tranh đặc sắc về cảnh nông
thôn nước ta, nhất là cảnh đồng chiêm trũng
miền Bắc.
-
Nguyễn Khuyến c̣n những bài thơ tả cảnh hè
(Đêm mùa hạ) và cảnh xuân (Ngày
xuân) rất độc đáo.
-
Những bài tả cảnh núi (Vịnh núi An lăo), cảnh
chùa (Về chơi chùa Đọi) đều trở thành
những danh lam thắng cảnh của đất nước.
Nguyễn
Khuyến nh́n cảnh vật bằng cặp mắt của
người thưởng ngoạn và bằng tâm hồn
của thi nhân nên trước vẻ đẹp của
đất nước đă vẽ lên một bức tranh
nghệ thuật tuyệt đẹp. Cảnh sông, núi, trăng,
sao, thời tiết, mùa màng qua cảm nhận của
ông đều trở nên có hồn và tinh tế.
3.2.
T́nh cảm của Nguyễn Khuyến:
3.2.1
Trước những nỗi điêu linh thống khổ
của nhân dân:
Nguyễn
Khuyến là nhà thơ của nông thôn nên viết về
nông thôn bằng tất cả t́nh cảm thân thuộc
quyến luyến. Có thể nói, trái tim ông đă rung lên
cùng một nhịp với trái tim của người lao
đôïng nghèo.Ôâng đă sống với tâm trạng
của họ, vui với cái vui của họ, buồn
với cái buồn của họ và mơ ước cái
họ từng mơ ước. V́ vậy, ông có những
vần thơ xuất phát từ t́nh cảm chân thành
của ḿnh thể hiện tâm trạng nhà thơ lúc nào cũng
gắn bó với nhân dân:
Lăo
làm ái táo, miên tương khởi,
(Hạ
nhật tân t́nh)
Dịch
nghĩa:
Tằm
già thích khô ráo, đương ngủ sắp trở
dậy,
Lúa
mới ngậm hơi ấm, đ̣ng đ̣ng dần
mẫn ra.
(Ngày
hè mưa măi mới tạnh)
Bài
thơ đă ghi nhận những chi tiết sinh động
và chính xác về bức tranh của cuộc sống.
Ngoài
những lo toan tính toán v́ công nợ của nhà nông:
Năm
nay cày cấy vẫn chân thua.
(Chốn
quê)
Bức
tranh nông thôn của
Nguyễn Khuyến c̣n phản ánh những sinh hoạt khác
như tâm trạng vui vẻ của người nông dân
vào những ngày tết được mùa được
ông ghi nhận:
Trong
nhà rộn rịp gói bánh chưng
Ngoài
cửa bi bô rủ chung thịt
Hoặc
cái buồn của cảnh chợ tết vào những năm
mất mùa đói khổ:
Dở
trời mưa bụi c̣n hơn rét,
Nếm
rượu tượng đ́nh được mấy ông?
Hàng
quán người về nghe xao xác,
Nợ
nần năm trước hỏi lung tung.
(Chợ
đồng)
3.2.2.
T́nh cảm đối với gia đ́nh, bạn bè làng
xóm:
Ông
sống rất chan hoà với gia đ́nh, bạn bè, làng
xóm. Những t́nh cảm tưởng chừng như
b́nh thường ấy đă đi vào thơ
Nguyễn Khuyến với một giá trị chân thật,
đáng quư.
-
Đối với
vợ, ông có t́nh cảm yêu kính rất đậm đà
Câu đối khóc vợ là một tiếng khóc chân thành
của ông đối với vợ.
-
Nhà
chỉn cũng nghèo thay, nhờ được bà hay làm,
hay làm thắt lưng có que,xắn váy quai cồng, tất
cả chân đăm đá chân chiêu, v́ tớ đỡ
đần trong mọi việc.
Bà
đi đâu vội mấy, để cho lăo vất vơ,
vất vưởng búi tóc củ hành, buông quần lá
toạ,gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai
kể lể chuyện trăm năm
-
Đối với con,ông rất thương yêu và quư
trọng các con. Lo lắng khuyên nhủ các con sống làm
người hữu ích cho xă hội, thấy các con lơ
là việc đèn sách, ông khuyên bảo rất chí t́nh:
Hoàn
cư bất măn cửu cao thổ,
Tố
nghiệp thư tha nhất thúc thư.
Nhi
tào hoặc khả thừa ngô chí,
Bút
nghiêng vô hoang đạo, thúc, sơ.
(Xuân
nhật thị chư nhi (I) )
Dịch
nghĩa:
Khu
nhà ở quây quần, không đầy chín sào đất,
Các
con nối chí cha nên biết
Bút
nghiêng đừng quên lúa, đậu, cà
(Ngày
xuân dặn các con (I) )
-
Ông không chỉ viết về gia đ́nh mà c̣n làm câu
đối, làm thơ để tặng bác thông gia, bác
hàng xóm, một anh hàng thịt, một chú thợ
nhuộm, thợ rèn... Bài nào cũng chân t́nh giản
dị.
-
Ông c̣n viết thơ thăm hỏi bạn bè, bỏ
hết những khuôn sáo cầu kỳ, lời thơ xuúat
phát từ tấm ḷng thành của ông (Khóc Dương
Khuê, Nước lụt thăm bạn ... ). Trước
cái chết của bạn, Nguyễn Khuyến làm thơ
thể hiện tâm trạng đau xót của ḿnh:
Kể
tuổi tôi c̣n hơn tuổi bác,
Tôi
lại đau trước bác vài ngày.
Làm
sao bác vội về ngay,
Ai
chả biết chán đời là phải,
Sao
vội vàng đă măi lên tiên?
Rượu
ngon không có bạn hiền,
Không
mua, không phải không tiền, không mua
(Khóc
Dương Khuê)
III.NGHỆ
THUẬT THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN:
1.1.
Đặc điểm chung:
Ngôn
ngữ thơ Nguyễn Khuyến rất phong phú không
những trong cách nói mà c̣n rất mỹ lệ, gợi
cảm trong cách miêu tả.
Nguyễn
Khuyến c̣n có biệt tài khai thác khả năng diễn
tả của từ ghép rất độc đáo:Thấp
le te, đóm lập ḷe, tẻo teo, ve ve, tênh nghếch, làng
nhàng, khỏe khoe…
Ngơ
tối đêm sâu đóm lập ḷe
(Thu
ẩm)
Nhiều
danh từ, những cách nói, những thành ngữ, tục
ngữ được dùng ở nông thôn được
ông sử dụng khá thành thạo: xôi bánh trâu heo, anh em
làng xóm,văn dai như chăo, người ba
đấng, của ba loài.
Ông
có làm một bài thơ cùng tên với câu tục ngữ
dân gian Nhất vợ nh́ trời
để lư giải v́ sao như vậy:
Vợ
mà vụng dại đếch ăn ai.
Cớ
sao vợ lại hơn trời nhỉ?
Vợ
chỉ hơn trời có cái chai!
Ông
tiếp tục truyền thống học tập ca dao,
tục ngữ của những nhà thơ Nôm các thế
kỷ trước, nhưng ông có lối sáng tạo riêng.
Ca
dao có câu Gái có chồng như gông đeo cổ th́ nhà thơ
làm bài thơ Muốn lấy
chồng phát triển cái tứ ngược lại:
Giang
sơn gánh vác nhẹ bằng lông.
1.2.
Ngôn ngữ trào phúng:
Ngôn
ngữ trào phúng của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng hóm
hỉnh, nhiều cung bậc. Trào phúng của Nguyễn
Khuyến có nét riêng không giống như Hồ Xuân Hương
hay Tú Xương là đánh một cái cho biết. Cái cười
của ông đối với kẻ thù tuy có cay nhưng
không độc địa bốp chát, mặc dù ông ông
có so sánh cờ nước Pháp với váy phụ nữ:
Ba
vuông phất phới cờ bay dọc
Một
bức tung hoành váy xắn ngang
(Lấy
Tây)
Ông
có biệt tài, cường điệu và chơi chữ
rất tài t́nh:
Văn
hay chữ tốt ra tuồng
Văn
dai như chăo chữ vuông như ḥm
Vẽ
thầy như vẽ con tôm
Vẽ
tay ngoái cám, vẽ mồm húp tương.
(Đùa
chế ông Đồ Cự
Lộc)
Hoặc
cái dí dỏm của câu đối tết viết dùm người
hàng thịt:
Tứ
thời bát tiết canh chung thủy
Ngạn
liễu đôi bồ dục điểm trang
Các
bài thơ tiêu biểu: Than già, Bác đến chơi nhà,
Tự trào, Bóng đè cô đầu, Tạ lại
gnười cho hoa trà, Lấy tây, Đùa chế ông đồ
Cự Lộc, Câu đối tết… đều là
những vần thơ trào phúng độc đáo
của Nguyễn Khuyến.
1.2.
Ngôn ngữ tả cảnh:
Nguyễn
Khuyến rất thành công trong việc miêu tả
cảnh sắc thiên nhiên. Thơ du vịnh và thơ
bốn mùa không chỉ tả cảnh mà c̣n miêu tả tâm
trạng của nhà thơ.
Ngôn
ngữ tả cảnh rất chính xác, cách chọn chữ
, dùng từ thích hợp, từ ngữ thường
lấp láy giàu nhạc điệu, có khả năng
gợi tả cao.
Sử
dụng vốn ngôn ngữ b́nh dân nhưng không hề rơi
vào sự thông tục hóa, cảnh nào cũng được
vẽ, được chạm khắc thần t́nh đạt
đến mức nghệ thuật.
H́nh
ảnh sử dụng thường đơn sơ, khêu
gợi thể hiện qua những chi tiết thật b́nh
dị, sống động. Nó có giá trị nâng các câu thơ
làm tăng sức biểu cảm. H́nh ảnh hoa nở, trăng
trôi, chiếc thuyền thấp thoáng, bé tẻo teo, ngơ
trúc quanh co, thấp le te, đóm lập ḷe… đầy
sức sống.
Thơ
ông có sự kết hợp hài ḥa giữa âm thanh và màu
sắc gợi cảm giác vừa xem tranh thủy mặc
vừa nghe thơ Đường.
Aâm
thanh của tiếng muỗi, tiếng dế, tiếng
gnỗng, tiếng trâu thở, tiếng hạc bay, tiếng
chó sủa, tiếng sóng vỗ đă lột tả
được đặc điểm của ngoại
cảnh và tâm lư:
Tiếng
sóng long bong vỗ trước nhà
(Vịnh
lụt)
Màu
sắc tuyệt diệu có
khả năng gợi tả cao: Màu xanh của nước,
màu xanh của trời, xanh, xanh của ngọc, xanh của
tre, xanh của bèo, màu đỏ hoe của mắt, màu sương
chiều, màu sáng của trăng đă tạo nên màu
sắc đậm nhạt, mờ ảo thanh đạm,
lặng lẽ. Làn ao lóng lánh bóng trăng loe dễ gây
ấn tượng thị giác.
Nguyễn
Khuyến là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn
ngữ và h́nh ảnh nhất là trong việc tả
cảnh sắc thiên nhiên. Ông được mệnh danh
là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam v́ những
cảnh, người, vật qua cảm nhận của ông
đều đậm đà phong vị của quê hương
đất nước. Nguyễn Khuyến đă có
những cống hiến quan trọng làm cho ngôn ngữ
đi sát với đời sống
và ông đă thành công trong việc chuyển cái tinh
túy của đời thường thành thơ.
Nguyễn
Khuyến là nhà thơ có tài năng về nhiều
mặt. Thơ trào phúng của ông bao giờ cũng tự
nhiên, tươi tắn tạo nên những nụ cười
nhẹ nhàng, thanh nhă, ư vị; Thơ tả cảnh tả
t́nh có cái nhẹ nhàng, mềm mại thanh thoát, ư tứ
gần gũi, chất liệu lấy từ cuộc
sống nông thôn.
Nguyễn
Khuyến đă thành công trong việc sử dụng ngôn
ngữ dân tộc, trong việc tả cảnh sắc thiên
nhiên. Ông xứng đáng là nhà thơ lớn của
nền văn học Việt Nam.