(1871-1907)
(1871-1907)
***
I.CUỘC
ĐỜI, THỜI ĐẠI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC:
1.Cuộc đời: |
Trần
Tế Xương tên thật là Trần Duy Uyên, quen
gọi là Tú Xương, tự là Mặc Trai, hiệu là
Mộng Tích, đến khi thi Hương mới lấy tên
là Trần Tế Xương. Ông sinh ngày 10-8-1871 tại lànVị
Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam Định và mất ngày
20-1-1907 ở làng Địa Tứ cùng huyện.
Tú
Xương là một người rất thông minh, tính t́nh
thích trào lộng. Có nhiều giai thoại kể về cá
tính của ông.
Cuộc
đời Tú Xương lận đận về thi
cử. Tám khoa đều hỏng nên dấu ấn thi
rớt in đậm nét trong tiềm thức Tú Xương.
Ông
cưới vợ rất sớm. Phạm Thị Mẫn
từ một cô gái quê Con gái nhà ḍng, lấy
chồng kẻ chợ. Tiếng có miếng không, gặp
hay chăng chớ trở thành bà Tú tần tảo một
nắng hai sương Quanh năm buôn bán ở mom sông. Nuôi
đủ năm con với một
chồng. Ông Tú vẫn có thể có tiền để
ăn chơi nhưng gia cảnh nghèo túng, việc nhà trông
cậy vào một tay bà Tú.
Có
thể nói, việc hỏng thi và cảnh nghèo của gia
đ́nh là nguồn đề tài phong phú trong sáng tác
của Tú Xương.
Cuộc
đời ông nằm gọn trong giai đoạn nước
mất, nhà tan.
Năm
Tú Xương ba tuổi (1873) Pháp đánh Hà Nội
lần thứ nhất rồi tấn công Nam Định.
Năm
mười bốn tuổi (1884) triều đ́nh kư hàng
ước dâng đất nước ta cho giặc.
Tuổi
thơ của Tú Xương trôi qua trong những ngày đen
tối và kư ức về những cuộc chiến đấu
của các phong trào khởi nghĩa chống Pháp cũng
mờ dần. Nhất là sau cuộc khởi nghĩa
của Phan Đ́nh Phùng (1896) bị thất bại th́ phong trào
đấu tranh chống Pháp dường như tắt
hẳn.
Năm
1897, Pháp đặt nền móng cai trị đất nước,
xă hội có nhiều biến động, nhất là ở
thành thị. Tú Xương lại sinh ra và lớn lên
ở thành thị vào thời kỳ chế độ
thực dân nửa phong kiến được xác lập,
nền kinh tế tư bản phát triển ở một nước
thuộc địa làm đảo lộn trật tự xă
hội, đảo lộn đời sống tinh thần
của nhân dân. Nhà thơ đă ghi lại rất sinh động,
trung thành bức tranh xă hội buổi giao thời ấy và
thể hiện tâm trạng của ḿnh.
Có
thể nói, đứng trước sự tha hoá của xă
hội nên nguyên tắc Tam cương ngũ thường của Tú Xương không đậm
như Nguyễn Khuyến và càng xa rời Đồ Chiểu.
Tú
Xương mất sớm, ông chua đi trọn con
đường sáng tác của ḿnh. Nhưng những tác
phẩm Tú Xương để lại có tác dụng như
một bản cáo trạng đanh thép lên án xă hội
thực dân nửa phong kiến trong giai đoạn nửa
cuối thế kỷ XIX.
Tú
Xương sáng tác rất nhiều và thất lạc cũng
nhiều. Ông viết khoảng 151 bài thơ bằng chữ
Nôm với đủ các thể loại. Ngoài ra, ông có
dịch một số thơ Đường.
II.NỘI
DUNG THƠ VĂN TRẦN TẾ XƯƠNG:
1.Thơ Tú Xương là một bức tranh nhiều vẻ, sinh động về một xă hội thực dân nửa phong kiến: |
Trong
thơ ông có h́nh bóng con người và sinh hoạt của
xă hội phong kiến cũ đă bị thực
dân hóa, và có h́nh bóng những vật mới, những sinh
hoạt mới - sản phẩm của xă hội
thực dân nửa phong kiến. Thơ Tú Xương là
tiếng nói đả kích, châm biếm sâu sắc và
dữ dội vào các đối tượng mà ông căm
ghét.
1.1.Đả
kích bọn thực dân Pháp:
Đốái
với thực dân Pháp, tuy chua phải là đối tượng
chính để tập trung phê phán nhưng ta vẫn
bắt gặp bóng dáng những tên thực dân xuất
hiện với dáng vẻ rất buồn cười. Đó là
h́nh ảnh những ông Tây, bà Đầm rất nghênh ngang
lố bịch (Vịnh khoa thi Hương
năm Đinh Dậu). Với ng̣i bút châm biếm sắc
sảo, Tú Xương đả kích chúng không khoang nhượng,
vạch trần thói gian ác, bần tiện, thủ đoạn
kiếm ăn dơ bẩn của chúng bằng bút pháp trào
phúng sâu sắc (Ông C̣).
1.2.Đối
với bọn quan lại, tay sai:
Đề
tài này thật ra không có ǵ mới mẻ so với trước,
nhưng cái mới ở đây là bút pháp của Tú Xương
có cá tính và mang nét cảm hứng thời sự.
Dưới
ng̣i bút của ông, h́nh ảnh bọn quan lại hiện lên
rất phong phú đa dạng. Đó là những lũ bất
tài, dốt nát (Bác Cử Nhu); chúng không khác chi những tên
hề (Hát bội).
Ông
phê phán tṛ gian lận, hối lộ, ḅn rút của dân không
nghĩ ǵ đến trách nhiệm (Đùa
ông Phủ).
Ông
c̣n vạch trần bản chất làm tay sai của
những tên quan lại lúc bấy giờ (Cô hầu
gửi quan lớn).
Từ
đó thấy được thái độ phẫn
uất của Tú Xương trước thực trạng
xă hội và ông đă dùng ng̣i bút của ḿnh để lên
án, phê phán những con người, những hiện tượng
trái tai, gai mắt.
Nhà
thơ đă dựng lại chân dung của bọn quan
lại, mỗi người mỗi vẻ nhưng đều
rất sắc cạnh, cụ thể. Một tên quan
huyện Ḿnh trung đâu đấy trách người trinh,
một ông Aám Chạy lăng quăng, ấm chẳng
ngồi, ông Đốc cờ bạc ăn chơi rặt
một màu, ông Cử Sách như
hủ nút, chữ như mù, một cô Bố Chồng chung,
vợ chạ, một chú Hàn th́ Đậu lạy, quan xin… và
cả một xă hội lố lăng, rởm đời
với quư vị phu nhân, các cậu ấm tử, sư săi…
cũng được Tú Xương tái hiện, sinh động,
cụ thể:
Hai
cậu con con đóng vai ấm tử, lỗi bếp
bồi cậu cũng như nhau.
Đôi
đức bà lên mặt phu nhân, ngón đĩ thỏa bà nào
cũng nhất.
Nhất
tắc mộ sư mô chi cực, nay chùa này, mai chùa khác,
mở ḷng từ tô tượng, đúc chuông.
Nhất
tắc ham chài lái chi khu, lên mành nọ xuống mành kia, che
miệng thế đong dầu rót mật
(Khai
lư lịch)
1.3.Đối
với khoa cử, nho học:
Trong
bức tranh xă hội của Tú Xương c̣n có những
nho sĩ đi thi, những ông Nghè, ông Cống; có h́nh
ảnh của trường thi, của một nền nho
học đang xuống dốc trầm trọng. Thời Tú
Xương không c̣n t́m thấy h́nh ảnh uy nghi, trang
trọng của một trường thi chữ Hán xưa
kia nữa mà nó đang lùi dần trước uy thế
của kẻ thù.
Ông
phản ánh thực trạng nho học suy đồi
bằng tiếng thở dài áo năo (Than đạo học).
Ông c̣n chế giễu những người kéo nhau đi
thi ở những trường lớp mới mở của
thực dân (Đổi thi).
Trong
buổi lễ xứng danh khoa Đinh Dậu, nhà thơ đă
vẽ ra trước mắt người đọc bức
tranh về cảnh trường thi cảnh ngao ngán của
sĩ tử trước thực trạng nước
mất, nhà tan, sĩ khí tiêu điều, bút lông hết
được săn đón Vứt bút lộng đi
giắt bút ch́. Đó là h́nh ảnh:
Lôi
thôi sĩ tử vai đeo lọ
Ậm
oẹ quan trường miệng thét loa.
Lọng
cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy
lê quét đất mụ đầm ra
Cái
tàn tạ của nho học được Nguyễn Bính
ghi lại:
Nước
non đi hết những người áo xanh
Lỡ
duyên bút tóc củ hành
Trường
thi Nam Định biến thành trường bay.
Tú
Xương than thở cho số phận của một ông
Nghè, ông Cống và giễu cả những ông Phán:
Nào
có ǵ lạ cái chữ nho
Ông
nghè, ông cống cũng nằm co
Sao
bằng đi học làm ông Phán.
(Chữ
nho)
1.4.
Phê phán thế lực đồng tiền:
Trước
Tú Xương, nhiều tác giả Việt Nam cũng như
nừơc ngoài đă lên án sức mạnh đồng
tiền. Nó chi phối tư tưởng và hành động
của con người. Đến thời Tú Xương,
đồng tiền lại một lần nữa gây đảo
điên xă hội nhất là ở thành thị. Nó làm cho
đạo đức suy đồi từ trong gia đ́nh
cho đến ngoài xă hội.
Tú
Xương đă mắng nhiếc cái xă hội đă
hỗn loạn lên v́ đồng tiền (Đất Vị hoàng,
Vị
Hoàng hoài cổ)
Có
thể thấy bức tranh xă hội của Tú Xương
bị tha hóa đến trầm trọng. Nào là cảnh:
Ở
phố Hàng Song thật lắm quan
Thành
th́ đen kịt, độc th́ lang
Chồng
chung vợ cha ḱa cô Bố
(
Phố Hàng song)
V́
đồng tiền, con người lường gạt nhau
để sống, đối xử với nhau không ra ǵ.
T́nh nghĩa cha con, vợ chồng, t́nh yêu, t́nh bè bạn
. . . đều bị chà đạp bởi thế lực
của đồng tiền. Bài thơ Mùng hai tết
viếng cô Kư, Để vợ chơi nhăng đă phê phán
thói đời thật đáng sợ. Ông chồng khóc
vợ chết chỉ v́ thương cái xe tay. C̣n vợ
đối với chồng th́ Trăm năm tuổi
lại trăm thằng
Ng̣i
bút Tú Xương đă khái quát bức tranh hiện
thực sinh động về một xă hội lố lăng,
rởm đời, có những cảnh khá nực cười,
những cảnh chướng tai, gai mắt cứ nhan
nhản xuất hiện trong thơ Tú Xương ( Năm
mới, Thói đời, Chữ nho):
Khăn
là bác nọ lo tày rế,
Váy
lĩnh cô kia quét sạch hè.
Công
đức tu hành sư có lọng,
Xu
hào xủng xoảng mán ngồi xe.
(
Năm mới)
Hay
cảnh nực cười khác:
Chí
cha chí chát khua giày dép,
Đen
thủi đen thui cũng lụa là.
1.5
Lên án những thói hư tật xấu của thời
đại:
Phê
phán những người hành đạo mà ḷng dạ
xấu xa và hành vi bẩn thỉu như cảnh sư săi
vụng trộm trong chùa, sư cho vay nặng lăi, sư
chứa của gian đến nỗi phải ở tù (Sư
ở từ, Ông sư và mấy ả lên đồng)
Ông
c̣n lên án thói đồng bóng, cho đồng bóng là tṛ mê
tín giả dối không thể chịu được:
Đồng
giỏi sao đồng không giúp nước
Hay
là đồng sợ súng thần công.
Phê
phán những phong tục xa hoa, phù phiếm trong ngày tết
ư tứ mỉa mai trước thực trạng nước
mất, nhà tan (Thói đời), vạch trần những tâm
lư giả dối, sáo rỗng của con người trong ngày
tết bằng lời lẽ châm biếm sắc sảo. Bài
thơ Chúc tết đă chế giễu độc địa
và sâu sắc:
Lẵng
lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc
nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen
này ông quyết đi buôn cối,
Thiên
hạ bao nhiêu đứa giả trầu.
Đứa
thời mua tước đứa mua quan.
Phen
này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa
chửi vừa rao cũng đắt hàng.
Nó
lại mừng nhau cái sự giàu!
Trăm
nǵn vạn mớ để vào đâu?
Phen
này ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng
rụng, đồng rơi, lọ phải cầu
Nó
lại mừng nhau sự lắm con
Sinh
năm đẻ bảy được vuông tṛn.
Phố
phường chật hẹp người đông đúc,
Bồng
bế nhau lên nó ở non.
2.1. Nỗi đau
xót về bản thân và thời cuộc:
- Về bản
thân:
Gánh nặng đeo đẳng nhà thơ suốt đ̣i
là nợ lều chơng. Ban đầu hỏng thi, ông c̣n cười
cợt, c̣n tự nghĩ cách để an ủi ḿnh. Nhưng
các khoa thi sau ( 1903, 1906) ông càng thất vọng, càng chua chát.
Tú Xương ngày càng đau buồn, chán năn, tuyệt
vọng và cay cú:
Học
đă sôi cơm nhưng chữa chín.
Thi
không ăn ớt thế mà cay
Đến
khoa thi cuối ( 1906) tiếng thở dài của Tú Xuơng
càng áo năo và bi thiết hơn nhiều:
Đệ
nhất buồn là cái hỏng thi
Một
việc văn chương thôi cũng nhảm
Trăm
năm thân thế chẳng ra ǵ
(
Buồn thi hỏng)
Ở
đây, dù đau v́ thi rớt, v́ công danh không thành đạt
nhưng Tú Xương vẫn ít ủy mị và luôn
tỏ thái độ khôi hài, lúc nào nụ cười trào
phúng cũng đến với ông. Qua những lời
tự trào, tư thú về ḿnh càng thấy rơ con người
và tính cách Tú Xương:
Tú
Xương tự khoe về sự ăn chơi của ḿnh:
Nghiện
chèm nghiện rượu, nghiện cả cao lâu,
Hay
hát, hay chơi, hay nghề xuống lơng.
Quanh
năm phong vận, áo hàng Tàu, khăn nhiễu tím, ô
Nhật Bản anh,
Ra
phố nghênh ngang, quần Tố nữ, bít tất tơ,
giày Gia Định bóng . . .
(
Phú ḥng thi)
-
Về cảnh
nghèo: Qua thơ ông, gia cảnh nhà ông hiện lên rất áo
năo và bi thiết
(
Mùa nực mặc áo bông) Nhà thơ từng thấm thía
cảnh chạy ăn, vay nợ, nhiều lúc ông phải gào
lên:
Van
nợ lắm khi trào nước mắt
Chạy
ăn từng bữa toát mồ hôi
(
Than nghèo)
Trong
hoàn cảnh nào, Tú Xương vẫn cười cợt,
châm biếm, nói ngông. V́ nghèo quá, ông đă tính đến
chuyện đi tu nhưng không phải tu v́ đạo lư mà
tu v́ tấm áo (Nghèo), rồi
nghĩ đến chuyện làm mứt rận đăi gai
đ́nh trong ngày tết, có những ư nghĩ ngông nghênh,
hợm hĩnh ( Mứt rận), hoặc nhiều lúc ông
đâm ra chán chường tuyệt vọng:
Ngủ
quách sự đời thây đứa thức.
Bên
chùa chú trọc đă khua chuông.
(
Đêm hè)
Vốn
là con nhà trào phúng nên trong hoàn cảnh nào nhà thơ
vẫn có thể cười cợt, vẫn bông đùa:
Anh
em đừng tưởng tết tôi nghèo
Tiền
bạc trong kho chữa lĩnh tiêu
Đúng
là nói cho vui, chứ kho đâu mà lĩnh, tiền đâu mà
tiêu? Chính cái nghịch lư này đă h́nh thành nên tính cách
của Tú Xương.
2.2.
Nỗi lo lắng thầm kín của Tú Xương trước
thời cuộc và vận mệnh đất nước:
-
T́nh cảm của Tú Xương đối với nhân dân:
Đối
với người nghèo như những người
học tṛ, những người nông dân chân lắm tay bùn
(Thề với ăn xin) .
. . những ḍng thơ của Tú Xương chứa chan t́nh
cảm và đầy ḷng ưu ái (Đại hạn)
Hoặc
ở một bài thơ khác, tâm trạng Tú Xương càng
thể hiện rơ hơn:
Ỳ
ào tiếng học nghe không rơ
Ông
lăo nhà quê tan tản dậy,
Bảo
con đem đó, chớ đem gầu . . .
Đối
với người phụ nữ, h́nh ảnh họ
hiện lên thật đáng thương, họ không
những khổ sở về vật chất mà c̣n bị
đau đớn về mặt tinh thần Thương
vợ là một bài thơ tiêu biểu của Tú Xương
viết về vợ:
Quanh
năm buôn bán ở mom sông
Nuôi
đủ năm con với một chồng
Lặn
lội thân c̣ khi quăng vắng,
Eo
sèo mặt nước buổi đ̣ đông
Năm
nắng mười mưa dám quản công
Cha
mẹ thói đời ăn ở bạc
Có
chồng hờ hững cũng như không.
Nỗi
u hoài kín đáo của Tú Xương trước thời
cuộc và vận mệnh đất nước thường
triền miên, day dứt:
Nhân
tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh
cổ mà trông cảnh nước nhà
(
Vịnh khoa thi Hương năm Đinh dậu)
Nhà
thơ thường thao thức suốt đêm dài để
lặng lẽ suy tư và thấy được cái heo hút
Vắng
lặng của đêm trường:
Đêm
sao đêm măi tối ṃ ṃ,
Đêm
đến bao giờ mới sáng cho.
Đàn
trẻ u ơ chừng muốn dậy,
Ông
già thúng thắng vẫn đang ho.
Ngọn
đèn ŕnh trộm khêu c̣n bé,
Tiếng
chó kinh người cắn vẫn to.
Hàng
xóm bốn bề ai dậy chửa,
Dậy
th́ lên tiếng gọi nhà nho.
(
Đêm dài)
Trong
hoàn cảnh đó, nhà thơ vẫn c̣n tỉnh táo để
nhận ra ḿnh:
Ḱa
cái đêm nay mới gọi đêm
Mắt
giương không ngủ bũng không thèm
T́nh
này ai thấu cho ta nhỉ
Tâm
sự năm canh một bóng đèn.
Điểm
sáng nhất, xúc động nhất trong thơ ông là
ở t́nh này. Đó là t́nh cảm của ông đối
với quê hương đất nước.
Nỗi
đau khi nh́n thấy đất nước đổi thay
mà bản thân ông th́ không làm ǵ thay đổi thời
cuộc ( Sông lấp). Bài thơ chứng tỏ Tú Xương
vẫn là người nặng t́nh đời và tha
thiết với cuộc sống. Mặc dù có lúc ông đâm
ra bối rối, lạc lơng, mất phương hướng
trước bao biến đổi của thời cuộc:
Hỏi
người chỉ thấy non xanh ngắt,
Đợi
nước càng thêm tóc bạc phơ
Đường
đất xa khơi ai mách bảo?
Biết
đâu mà ngóng dến bao
giờ?
(
Lạc đường)
Ḷng
yêu nước của Tú Xuơng c̣n thể hiện qua
sự khâm phục của Tú Xương đối với
những người có tài, có đức ra cứu đời,
giúp nước:
Vá
trời gặp hội mây năm vẻ
(
Gửi cụ thủ khoa Phan)
Tuy
không đủ dũng khí để đi vào cuộc cách
mạnh như bao nghĩa sĩ yêu nước khác nhưng
ông có cảm t́nh nồng hậu đối với
những người làm cách mạng. H́nh ảnh Phan
Bội Châu Vá trời, lấp bể đă đến
với Tú Xương bằng tất cả sự kính
mến, khâm phục.
3. Triết lư sống của Tú Xương giữa thời buổi loạn ly của đất nước: |
Triết
lư sống của Tú Xương đặc biệt không
giống ai giữa thời buổi loạn ly. Ông sống
giả câm, giả điếc, làm ngơ trước dư
luận. Sống như ông phải có kiểu cách riêng,
giống như h́nh ảnh của chú Mán ở Nam Định:
Khi
để chỏm, lúc cạo đầu
Nghêu
ngao câu hát nửa tàu, nửa ta
Chẳng
đội nón chịu màu da dăi nắng,
Chẳng
nhuộm răng để trắng dễ cười đời,
Chốn
quyền môn ḷn cúi mặc ai,
Ngoài
cương tỏa thảnh thơi ai đă biết.
(
Chú Mán)
Thái
độ sống khác của Tú Xương có phải chăng
là thái độ chống đối của nhà thơ trước
thời cuộc? Ông không muốn ḥa vào cuộc sống
ngột ngạt không lối thoát này, không muốn hợp
tác với cái văn minh trong thời kỳ nước
mất, nhà tan. Giữa bao cái rối rắm mà mọi người
đang t́m cách chen chân vào th́ Tú Xương tách khỏi nó.
Từ đó thể hiện sự yêu thích tự do, không
chịu cúi ḷn làm nô lệ.
Triết
lư sống của Tú Xương nếu đem đặt bên
cạnh triết lư sống của các nhà chiến sĩ yêu
nước là xả thân v́ nước lúc bấy giờ
th́ triết lư sống của Tú Xương có phần
nhạt nhẽo, vô vị. Nhưng nói chung, triết lư
sống của ông đă phần nào phản ảnh
được tâm trạng của lớp người
sống trong thời buổi không đành tâm theo giặc cũng
không cầm vũ khí chống giặc.
III.
NGHỆ THUẬT THƠ VĂN TRẦN TẾ XƯƠNG:
1.1.Thơ
trào phúng của Tú Xương hết sức đa
dạng và phong phú.
Có
bài thơ vừa có hiện thực vừa có trào phúng.
Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật, Tú Xương
sử dụng tiếng cười làm vũ khí. Ở Tú Xương
không có cái nhàn nhạt, cái lưng chừng, cười là
cười phá, chửi là chửi độc, chua chát
đến ứa mật, ứa máu.
Có
những bài tự trào, tự khoe về ḿnh, dùng ngôn
ngữ lấp lững, ỡm ờ, hoặc những
từ hoàn toàn thô tục . . . Tứ thơ thường
độc đáo, đột ngột, táo bạo gây
sự chú ư và bám vào linh hồn của chủ đề.
Tú Xương đă quàng vào cổ ông Hàn nọ ( Vốn
làm nghề nấu rượu) những xâu, chai, lọ,
vung, nồi lổn nhổn:
Đủ
cả vung nồi, cả cóng chai
(
Đưa ông hàn)
Cái
tài t́nh của Tú Xương là chợp đúng cái
thần của sự vật bằng một vài nét điển
h́nh, rồi với cách nói thẳng thừng, táo bạo và
hài hước của ḿnh, ông phơi bày cái lơi của
sự thật cho mọi người xem có khi ở câu
đầu:
Lúc
túng toan lên bán cả trời
Trời
rằng thằng bé nó hay chơi
(
Tự cười ḿnh)
Có
khi ở cuối câu:
Cụ
Xứ có cô con gái đẹp
Lăm
le xin bố cưới làm chồng
(
Đi thi nói ngông)
Có
khi mượn lối chơi chữ:
Ấm không ra ấm, ấm ra nồi
(
Bỡn ông ấm Điềm)
Có
lúc nhân cái mồm tu hú của đối tượng mà
hạ một ư thật lạ lùng:
Cậu
này ắt hẵn hay nghề sáo,
Dây
vũ dây văn vụng ngón đàn
(
Thông gia với quan)
Hoặc
mở đầu bài thơ Để vợ chơi nhăng là
đánh thẳng đối tượng là anh chồng
ngu”:
Thọ
kia mày có biết hay chăng
Con
vợ mày kia xiết nói năng
Vợ
đẹp của người không giữ được
Nhưng
mục đích chính là đả kích mụ vợ, nên
khổ thơ cứ dồn dập và quyết liệt:
Trong
bụng sao mà những gió trăng,
Mới
biết hồng nhan là thế thế,
Trăm
năm, trăm tuổi, lại trăm thằng.
Có
thể nói, Tú Xương đạt đến đỉnh
cao của nghệ thuật kết cấu trong thơ trào phúng,
trước hết v́ tiếng cười của ông là
sự phê phán của một lư trí và cảm xúc nhạy bén
của con tim nên tiếng cười trào phúng của Tú Xương
rất chắc, hiệu quả cao.
1.2.Thơ
trữ t́nh của Tú Xương:
Lời
thơ nhuần nhuyễn, ư thơ gần gũi, sâu
lắng.
Các
bài thơ tiêu biểu Đêm hè, Ngẫu hứng, Sông
lấp, Gửi cụ thủ khoa Phan, Nhớ
bạn phương trời . . . thể hiện cái sâu xa
trong tâm trạng của ông đó là tinh thần dân
tộc, tuy có giới hạn nhưng rất đáng quư,
đă h́nh thành nên tính cách Tú Xương.
Ông
có những bài thơ thể hiện t́nh cảm lăng
mạn cũng khá hiện đại:
Em
gửi cho anh mănh lụa đào
Không
biết rằng em bán thế nào
(
Tặng người quen)
Đề
tài thơ trữ t́nh của Tú Xương tuy không phong phú
và đa dạng như thơ trào phúng nhưng cũng
rất sâu sắc và đậm đà. Nhà thơ sử
dụng nhiều chi tiết từ
cuộc sống nên tứ thơ rất sinh động,
nhiều chi tiết xác thực như bản thân đời
sống . H́nh ảnh bà Tú được tái hiện
bằng những nét rất thực:
Eo
sèo mặt nước buổi đ̣ đông.
(
Thương vợ)
Bài
thơ Nhớ bạn phương trời đă đi sâu vào
thế gới tâm trạng, tràn ngập cảm xúc
trữ t́nh của nhà thơ đối với nhà cách
mạng Phan Bội Châu.
Ta
nhớ người xa cách núi sông,
Người
xa, xa lắm nhớ ta không?
Sao
đang vui vẻ ra buồn bă
Vừa
mới quen nhau đă lạ lùng
Lúc
nhớ, nhớ cùng trong mộng tưởng
Khi
riêng riêng đến cả t́nh chung
Tương
tư lọ phải là trai gái,
Một
ngọn đèn xanh trống điểm thùng.
1.3.Sự
kết hợp hai yếu tố hiện thực và trữ t́nh:
Rất
độc đáo và sâu sắc. Kết cấu bài thơ
không g̣ bó. Tính phóng túng trong suy nghĩ cũng như trong
tính t́nh đă đem vào khuôn khổ thể thơ bảy
chữ tám câu nhiều nét mới đă phá vỡ mọi
qui định:
Việc
bác không xong tôi chết ngay!
(
Bỡn người làm mối)
Hỏi
lăo đâu ta?- Lăo ở Liêm
Trông
ra bóng dáng đă hom hem
(
Già chơi trống bỏi)
Người
đói ta đây cũng chẳng no,
Cha
thằng nào có tiếc không cho
(
Thề với ăn xin)
Rất
nhiều bài thơ của Tú Xương có sự kết
hợp hài ḥa hai yếu tố hiện thực và trữ t́nh
(Vịnh khoa thi hương năm Đinh Dậu, Thương
vợ, Thề với ăn xin . . .)
Nói
về sự kết hợp giữa hai yếu tố
hiện thực và trữ t́nh trong một bài thơ,
Nguyễn Tuân cho rằng: Sở dĩ thơ Tú Xương
không bị tắt gió, không bị bay ra khỏi là v́
thơ Tú Xương đă đi bằng hai chân hiện
thực và lăng mạn, là v́ thi pháp của Tú Xương
phối hợp cả hiện thực và trữ t́nh
2.1.
Ngôn ngữ:
2.2.
Tú
Xương là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn
ngữ và h́nh ảnh. Ngôn ngữ giản dị, chính xác,
uyển chuyển, gợi h́nh và có tính chất dân gian ( Đi
hát mất ô) được xem là bài duyên dáng, hóm hĩnh,
độc đáo của Tú Xương v́ ông đă
thể hiện được cái thần của bài thơ.
Sử
dụng ngôn ngữ hàng ngày, tươi mát, tự nhiên mà
vẫn thanh nhă, óng chuốt. Mấy câu sau đây như
lời nói ở cửa miệng, không thêm bớt mà
rất chân thành:
Tôi
hỏi thăm ông đến tận nhà,
Trước
nhà có miếu, có cây đa
Cửa
hè sân ngơ chừng ba thước,
Nửa
tá tre pheo đủ một ṭa . . .
(
Ông ấm Điềm)
Hoặc
đây là cách nói ngang tàng nhưng rất tự
nhiên:
Năm
mới vừa sang được một ngày
(
Viếng cô Kư)
Hai
họ là vợ hai, đối với Một ngày tức mùng
một tết. Vậy câu thơ chỉ giữ cái
vỏ của phép đối mà vượt qua những ràng
buộc khác khiến cho lời thơ của Tú Xương
không những êm tai, sướng miệng mà c̣n rất
độc đáo, có giá trị châm biếm cao.
2.2.Chất
liệu dân gian:
Nhiều
thành ngữ dân gian, ca dao đă đi vào thơ Tú Xương
bằng sự sáng tạo riêng.
Các
thành ngữ như Học đă sôi cơm, thi không ăn
ớt, vuốt râu nịnh vợ, quắc mắt
khinh đời, năm nắng mưới mưa, thân c̣
lặn lội . . . đă được Tú Xương
vận dụng khá độc đáo trong thơ.
Vuốt
râu nịnh vợ con bu nó
Quắc
mắt khinh đời cái bộ anh.
Tú
Xương rất am hiểu ca dao, nhiều câu ca dao c̣n
thể hiện cái t́nh tứ, duyên dáng, hóm hỉnh
của nhà thơ.
Ai
ơi c̣n nhớ ai không?
Trời
mưa một mảnh áo bông che đầu
Nào
ai có tiếc ai đâu
Áo bông ai ướt khăn đầu ai khô?
Người
đi tam đảo, ngũ hồ.
Kẻ
về khóc trúc, than ngô một ḿnh.
Non
non, nước nước, t́nh t́nh
( Áo bông che đầu)
Về
nội dung, thơ trào phúng và trữ t́nh của Tú Xương
có giá trị hiện thực cao. Thơ Tú Xương là
tiếng nói, là nỗi ḷng của tầng lớp nho sĩ
đang đứng giữa thời cuộc không đành tâm
theo giặc cũng không cầm vũ khí chống giặc.
Về
nghệ thuật, cả hai mặt trào phúng và trữ t́nh,
Tú Xương xứng đáng là nhà thơ lớn của
dân tộc, xứng đáng được Yên Đỗ (
Nguyễn Khuyến) nhà thơ cùng thời xếp vào
loại thi hào bất tử :
Có
nhẽ ngh́n thu tiếng vẫn c̣n.