Chương 2
NGUYỄN
Đ̀NH CHIỂU
(1822-1888)
***
Chương 2
NGUYỄN
Đ̀NH CHIỂU
(1822-1888)
Nguyễn
Đ́nh Chiểu là người mở đầu cho giai đoạn
văn học nửa cuối thế kỷ XIX, tên tuổi
ông là tượng trưng cho ḷng yêu nước của nhân
dân miền Nam, và thơ văn ông là những trang bất
hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt
của nhân dân ta chống
bọn xâm lược phương Tây ngay buổi đầu
chúng đặt chân lên đất nước ta.(*)
Nguyễn
Đ́nh Chiểu sinh ngày 1-7-1822 tại làng Tân Thới,
huyện B́nh Dương phủ Tân B́nh, Gia Định và
mất ngày 3-7-1888 tại Ba Tri, Bến Tre.
Cuộc
đời Nguyễn Đ́nh Chiểu sớm trải qua
những chuỗi ngày gia biến và quốc biến hải
hùng đă tác động đến nhận thức
của ông.
Ngay
từ nhỏ, Nguyễn Đ́nh Chiểu đă theo cha chạy
giặc. Từ một cậu ấm con quan, bỗng
chốc trở thành một đứa trẻ thường
dân sống trong cảnh chạy loạn, trả thù, chém
giết. Lớn lên, bị bệnh mù mắt, bị gia
đ́nh giàu có bội ước, công danh dang dở.
Mặc dù cuộc đời Nguyễn Đ́nh Chiểu
gặp nhiều bất hạnh nhưng lúc nào ông cũng
gắn bó với nhân dân. Tuy sống trong cảnh mù ḷa nhưng
Nguyễn Đ́nh Chiểu đă tiến thân thành danh bằng
con đường hành đạo của ḿnh. Ông đă
mở lớp dạy học, viết văn và hốt
thuốc chữa bệnh cho dân. Lúc nào ông cũng quan tâm
lo lắng cho chiến sự. Ở đâu ông cũng làm cùng
một lúc ba nhiệm vụ của ba người tri
thức để cứu dân, giúp đời.
Nguyễn
Đ́nh Chiểu có nhiều nghị lực và phẩm
chất, phải có nghị lực phi thường và khí
phách cứng cỏi th́ Nguyễn Đ́nh Chiểu mới vượt
qua những bất hạnh của cá nhân và thời
cuộc để đứng vững trước cơn
binh lửa hăi hùng của lịch sử mà không sờn ḷng,
nản chí. Nguyễn Đ́nh Chiểu là hiện thân của
nhiều phẩm chất cao đẹp làm người.
Trong ứng xử cà nhân, Đồ Chiểu là tấm gương
sáng về đạo hiếu nghĩa nhân từ. Tất
cả cô đúc lại thành khí tiết của nhà nho yêu
nước Việt Nam tiêu biểu cho giai đoạn
nửa cuối thế kỷ XIX.
2.1.Quá
tŕnh sáng tác:
Văn
chương chưa phải là toàn bộ sự nghiệp
của Nguyễn Đùnh Chiểu. Sự nghiệp của ông
c̣n lớn hơn nhiều. Ông không chỉ là nhà văn mà
c̣n là nhà giáo, người thầy thuốc và là một
nhà tư tưởng. Nhưng văn chương của ông
đồ sộ đủ đứng thành sự
nghiệp riêng.
Nguyễn
Đ́nh Chiểu bắt đầu viết văn sau khi mù,
hầu hết các tác phẩm đều viết bằng
chữ Nôm. Căn cứ vào nội dung có thể chia ra thành
hai thời kỳ sáng tác:
-Trước
khi Pháp xâm lược Nam Kỳ: Tác phẩm Lục Vân Tiên
là tác phẩm đầu tay, có tính chất tự
truyện.
-Pháp
xâm lược Nam Kỳ:
+
Tác phẩm Dương Từ-Hà Mậu có ư kiến cho
rằng tác phẩm được viết trước khi
Pháp xâm lược cũng có ư kiến ngược
lại, mục đích của tác giả là dạy đạo
Khổng cho học tṛ và sau này được sửa
lại cho phù hợp với t́nh h́nh.
+
Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp chủ
yếu nói về các phương thuốc và nghề làm
thuốc nhưng tràn đầy tinh thần yêu nước.
+
Các bài thơ Đường luật, các bài hịch, văn
tế… tiêu biểu Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc(1861), Mười hai bài thơ và bài văn tế
Trương Định(1864), Mười bài thơ điếu
Phan Ṭng(1868), Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục
tỉnh(1874), Hịch kêu gọi nghĩa binh đánh Tây,
Hịch đánh chuột chưa xác định thời
điểm sáng tác.
Với
những tác phẩm nổi tiếng của ḿnh, Nguyễn
Đ́nh Chiểu trở thành người có uy tín lớn.
Bọn thực dân nhiều lần t́m cách mua chuộc ông
nhưng ông vẫn một mực từ chối các ân
tứ. (Có nhiều giai đoạn về thái độ
bất hợp tác của Nguyễn Đ́nh Chiểu
với kẻ thù).
Cuộc
đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ
mù Nam Bộ là một bài học lớn về ḷng yêu nước,
về việc sử dụng ng̣i bút như một vũ khí
đấu tranh sắc bén. Tấm gương Nguyễn Đ́nh
Chiểu theo thời gian vẫn không mờ đi chút nào.
2.2.Quan
điểm văn chương:
Nguyễn
Đ́nh Chiểu tuy không nghị luận về văn chương
nhưng ông có quan điểm văn chương riêng. Quan
điểm văn dĩ tải đạo của ông khác
với quan niệm của nhà nho, càng khác với quan
niệm chính thống lúc bấy giờ. Nhà nho quan niệm
Đạo là đạo của
trời, c̣n Đồ Chiểu cũng nghĩ đến nhưng
có khác:
Đạo
trời nào phải ở đâu xa
Gẫm
ở ḷng người mới thấy ra
Trên
nguyên tắc đạo trời được đề
cao nhưng trong thực tế đạo làm người
đáng quư hơn nhiều. Đó là quan niệm bao trùm văn
chương Đồ Chiểu.
Quan
điểm văn chương Đồ Chiểu tuy không
được tuyên ngôn nhưng đây là quan điểm
tiến bộ và gần gũi với văn chương dân
tộc: Văn chương chiến đấu, vị nhân
sinh, đầy tinh thần tiến công và tinh thần nhân
ái.
II.NỘI
DUNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN Đ̀NH CHIỂU:
1.1.Tóm
tắt cốt truyện:
Đây
là câu truyện thơ lục bát dài 2082 câu. Cốt
truyện được tóm tắt như sau:
-Lục
Vân tiên gặp Kiều Nguyệt Nga (Câu 1-186)
-Lục
Vân Tiên bị tai nạn dồn dập và được
cứu giúp (Câu 187-1264)
-Kiều
Nguyệt Nga bị cống Phiên (Câu 1265-1664)
-Lục
Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga nên nghĩa vợ chồng
(câu 1665-2082)
1.2.
Lục Vân Tiên thể hiện Đạo làm người trong
cuộc đời thường:
1.Đạo
đức nhân nghĩa trong tác phẩm Lục Vân Tiên
Khái
niệm nhân nghĩa của Nguyễn Đ́nh Chiểu bắt
nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa của nho giáo
và trong thâm tâm, ông từng khẳng định và ca
ngợi đạo nho Theo
đường nhân nghĩa chi bằng đạo nho.
Viết
tác phẩm Lục Vân Tiên, tác giả có nêu lên
những tấm gương về luân lư, đạo
đức kiểu Nhị thập tứ hiếu nhằm
mục đích giáo huấn, cải tạo xă hội:
Trai
thời trung hiếu làm đầu
Gái
thời tiết hạnh làm câu trau ḿnh.
Quan
niệm này xuất hiện rải rác trong toàn bộ tác
phẩm thông qua hành động và tính cách các nhân vật
(Vân Tiên, Nguyệt Nga, Tiểu Đồng…) dễ làm ta nghĩ
đến những quan niệm phong kiến Nam nữ
thụ thụ bất thân, về ḷng trung thành, về
chữ trung, chữ tiết phong kiến.
Nhưng
trong khi thực hiện đạo đức nhân nghĩa,
Nguyễn Đ́nh Chiểu đă nhào nặn lại tư tưởng
của đạo nho, đă tiếp thu một cách sáng
tạo phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
Trong tác phẩm có đặt ra vấn đề trung,
hiếu, tiết, nghĩa nhưng không c̣n theo lư thuyết
nho giáo g̣ bó, áp đặt, cứng nhắc, cực đoan
theo kiểu phong kiến mà được khúc xạ đến
mức khó nhận ra.
Các
nhân vật không thấy ḿnh bị g̣ bó bởi một
nguyên lư đạo đức nào. Vân Tiên nghe theo lệnh
vua đi chống giặc Ô Qua là để cứu dân. Đó
là hành động trung quân hay ái quốc cũng được.
Tư tưởng trung quân của Nguyễn Đ́nh Chiểu là
trung quân có điều kiện, trung với lẽ phải,
trung với nước. Nhưng đối với những
ông vua xấu, vua ác th́ ông phê phán:
Quán
rằng: ghét việc tầm phào
Ghét
cay ghét đắng, ghét vào tận tâm
Ghét
đời Kiệt, Trụ mê dâm.
Ghét
đời U, Lệ đa đoan,
Ghét
đời Ngũ bá phân vân,
Chuộng
bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét
đời Thúc quư phân băng,
Sớm
đầu tối đánh lằng nhằng hại dân…
Hành
động tự trầm của Nguyệt Nga cũng là thái
độ phản kháng đối với chữ trung.
Nghĩa
t́nh nặng cả hai bên.
Lấy
ḿnh báo chúa, lấy ḷng sự phu.
Nguyễn
Đ́nh Chiểu là một nhà nho sống dưới thời
nhà Nguyễn là thời kỳ nho giáo được đề
cao. Nhưng có được một quan niệm đạo
đức như thế rơ ràng là tiến bộ. Như
vậy, tuy tác phẩm có đề cao trung , hiếu
tiết, hạnh nhưng không phải hoàn toàn thuộc quan
niệm phong kiến mà có nhiều yếu tố nhân dân.
Đứng
trên lập trường nhân dân, ông ca ngợi những người
hành động v́ nhân nghĩa và họ xem đó là
một nhu cầu mà không hề nghĩ đến lợi
danh, không cần báo đáp.
-Đó
là những người rất hào hiệp, nghĩa khí
Giữa đường thấy chuyện bất bằng
chẳng tha Vân Tiên Tả xung hữu đột đánh cướp
cứu Nguyệt Nga, Hớn Minh bẻ gị con quan tri
huyện để cứu người bị ức
hiếp thế cô.
-Họ
c̣n là những người tốt, giàu ḷng thương người,
sẵn sàng giúp đỡ người khác không nghĩ
đến thân, quên ḿnh v́ nghĩa. Ông Ngư hết ḷng
chăm sóc cho Vân Tiên trong lúc hoạn nạn:
Hối
con vầy lửa một giờ
Ông
hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Dốc
ḷng nhân nghĩa há chờ trả ơn
Nước
trong rửa ruột sạch trơn
Một
câu nhân nghĩa chi sờn ḷng đây.
Tất
cả việc làm v́ nghĩa của các nhân vật chính
diện trong tác phẩm Lục Vân
Tiên đều thể hiện được một quan
điểm nhất quán của Đồ Chiểu về
cuộc sống, cũng như về đạo đức.
Để
khẳng định tư tưởng nhân nghĩa, một
mặt, ông ca ngợi cái chính nghĩa mặt khác ông phê
phán cái phi nghĩa. Các nhân vật trong tác phẩm
được sắp xếp thành hai tuyến nhân vật
rất rơ. Một bên là những con người chính nghĩa
và bên kia là những kẻ bất nhân bất nghĩa như
gia đ́nh họ Vơ ăn ở hai ḷng, như Trịnh Hâm
tính t́nh đố kỵ nhỏ nhen; như Bùi Kiệm dâm
ô, dốt nát và hàng loạt những tên lang băm, phù phép,
bối toán nhiễu đời, hại dân cùng với
những tên sâu dân mọt nước như tên Vua Sở,
tên Thái Sư trong truyện. Tất cả những nhân
vật phản diện này đều tiêu biểu cho cái
xấu, cái ác nên cuối cùng đều bị trừng
trị thích đáng.
Cách
xử lư của tác giả rất gần với quan
niệm của nhân dân Thiện giả thiện báo, ác
giả ác báo. Đó cũng chính là đạo lư, là ước
mơ của nhân dân.
2.Lục
Vân Tiên thể hiện bản chất đạo lư nhân dân:
Vấn
đề đạo lư c̣n được thể hiện
qua các quan hệ khác trong tác phẩm: Cha con, chồng
vợ, thầy tṛ, bạn bè… Nguyễn Đ́nh Chiểu
đă đặt ra những t́nh huống xử thế
trong các mối quan hệ đời thường, gia đ́nh
và xă hội. Nó rất gần gũi và cần thiết
với cuộc sống hàng ngày và bao trùm hơn cả là
mối quan hệ giữa con người với con người.
Mối
t́nh Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga được
vun đắp từ vấn đề ân nghĩa. Khi nghe tin
Vân Tiên mất, nàng kiên quyết thủ tiết thờ
chồng. Nỗi đau buồn của nàng khi được
lệnh cống Ô qua: Trong dạ như bào, canh chày
chẳng ngủ, những thao thức
hoài… và lấy cái chết để giữ t́nh phu
phụ. Vân Tiên cảm phục tấm ḷng sắt son
chung thủy của người yêu nên đă không ngần
ngại Xin đền ba lạy sẽ bày
nguồn cơn. Vân Tiên đă làm một việc mà đạo
đức phong kiến không cho phép. Cũng giống như
Nguyệt Nga, nàng đă vượt qua lễ giáo phong
kiến tự ư đính ước với Vân Tiên.
Các
nhân vật chính diện trong tác phẩm sống rất
hồn nhiên, cởi mở. Họ sống có t́nh, có nghĩa,
giản dị, chân chất. T́nh thầy tṛ giữa Tôn Sư
và Vân Tiên, t́nh cảm bạn bè giữa Vân Tiên, Tử
Trực, Hớn Minh; T́nh nghĩa chủ tớ giữa Vân
Tiên với Tiểu Đồng; giữa Nguyệt Nga và Kim Liên
được miêu tả giống với cuộc sống
và quan niệm của nhân dân.
Đoạn Vân Tiên bày tiệc tế Tiểu Đồng
rất cảm động, nhưng Tiểu Đồng c̣n
sống, gặp lại nhau tớ thầy vui mừng không
xiết:
Trạng
nguyên khi ấy mừng vui
Tớ
thầy sum hiệp tại nơi Đại đề
Đoạn
thôi xe trở ra về…
Vân
Tiên cùng các bạn là Hớn Minh, Tử Trực vẫn thân
thiết như ngày trước:
Hai
người gặp lại hai người
Đều
vào một quán vui cười ngả nghiêng.
Bản
chất nhân dân c̣n thể hiện qua đặc điểm
tính cách của nhân vật. Quan điểm thương ghét
của Ông Quán rất rơ ràng, dứt khoát tiêu biểu cho
tính cách của người dân Nam bộ, quan điểm này
cũng xuất phát từ tấm ḷng thương yêu tŕu
mến Bởi chưng hay ghét cũng
là hay thương. Hớn Minh là người nghĩa khí, hành
động bẻ gị con quan tri huyện ỷ thế giàu
sang làm càng là tiêu biểu cho hào khí của người dân
lục tỉnh. Cũng như Tử Trực được
miêu tả là một người trực tính, không màng
danh lợi, sống có t́nh có nghĩa, rất mực yêu quư
bạn, nghe tin Vân Tiên mất chàng than khóc:
Nghe
qua Tử Trực chạnh ḷng
Hai
hàng nước mắt ṛng ṛng như mưa.
Nhưng
tiêu biểu nhất là nhân vật Lục Vân Tiên, chàng là
mẫu ngưỡi lư tưởng nên hội đủ các
điều kiện mà nhân dân mơ ước: trọng
nghĩa khinh tài, pḥ đời giúp nước, đối
nhân xử thế đều theo quan điểm nhân dân.
1.3.Lục
Vân Tiên từ dáng dấp một tự truyện, một
giấc mơ đến lư tưởng xă hội:
1.Từ
dáng dấp một tự truyện, một giấc mơ:
Lục
Vân Tiên là một câu chuyện mang tính chất tự
truyện. Tính chất tự truyện
thể hiện qua những chi tiết có tính chất
bề nổi và bề sâu của tác phẩm. Chính nội
dung tự thuật này đă bao quát toàn bộ cốt
truyện và thể hiện suốt chiều dài tác
phẩm.
Lục
Vân Tiên thể hiện giấc mơ Đồ Chiểu Người
thanh niên bị phụ t́nh đă ước mơ một
mối t́nh chung thủy. Chàng ước mơ những
cử chỉ anh hùng, mơ ước trả nợ nước
non và tâm sự ấy chàng đă gửi vào Tử
Trực, vào Hớn Minh, nhất là vào Vân Tiên. Vân Tiên cũng
bị mù nhưng sẽ có thuốc tiên chữa cho sáng
mắt ra. Vân Tiên sẽ thực hiện cái chí b́nh sanh
của Nguyễn Đ́nh Chiểu(*)
Ngoài
giấc mơ riêng tư c̣n là giấc mơ chung về
cuộc đời rộng lớn mà tự nó đă
thể hiện ư nghĩa xă hội sâu sắc.
2.Đến
một lư tưởng xă hội:
-Lục
Vân Tiên là cả một xă hội, tất nhiên là xă
hội phong kiến với đầy đủ các
hạng người: Vua quan, thứ dân, đứa ở,
kẻ sĩ… Một xă hội với đầy đủ
những người tốt, kẻ xấu. Nguyễn Đ́nh
Chiểu đă dựng ra cả một cuộc đời
để gửi gấm lư tưởng xă hội của ḿnh.
-Nhà
thơ đă xây dựng những mẫu người lư tưởng,
qua những nhân vật lư tưởng, ông muốn xây
dựng một xă hội lư tưởng. Ở đó, cái
tốt đẹp được coi trọng và ngưỡng
mộ, người tài đức được trọng
dụng, các oan khuất được giải minh. Tóm
lại, đó là xứ sở của điều thiện,
lẽ sống công bằng và ḷng nhân ái.
-Bên
cạnh đó, nhà thơ phê phán những bất nhân,
bất nghĩa. Qua diễn tiến và kết cục
của số phận nhân vật phản diện trong tác
phẩm, Nguyễn Đ́nh Chiểu muốn nói lên rằng
muốn xây dựng một xă hội lư tưởng
phải tiêu diệt những hạng người xấu
xa, độc ác.
Cách
xử lư này tuy có phần ảo tưởng và thỏa
hiệp nhưng có ư nghĩa xă hội sâu sắc. Nó
thể hiện sự cao thượng và càng làm cho tính cách
của nhân vật chính diện càng lư tưởng hơn,
thể hiện được tư tưởng lạc
quan của nhân dân: Cái ác, cái xấu dẫu được
người tha, th́ vẫn là Trời không dung, đất
không tha.
-Tác
phẩm có xây dựng các yếu tố thần kỳ: Giao
long, phật bà, du thần, hai đạo
bùa… Các yếu tố thần kỳ này đă được
sự tiếp tay, tiếp sức cho chính nghĩa, thể
hiện khát khao công lư và nhân ái của nhân dân.
1.4.Vài
đặc điểm về nghệ thuật:
1.Kết
cấu:
Kết
cấu không khác mấy so với truyện thơ Nôm giai
đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII-nửa đầu
thế kỷ XIX, là vẫn xây dựng hai tuyến nhân
vật đối lập nhau nhưng trong Lục Vân Tiên
sự đối lập được thể hiện
trong từng cặp nhân vật một: Hớn Minh ><
Trịnh Hâm; Tử Trực >< Bùi Kiệm; Kiều
Nguyệt Nga >< Vơ Thể Loan> xây dựng kiểu
kết cấu này giúp tác giả trực tiếp bày
tỏ quan điểm của ḿnh.
2.Sự
chuyển ư:
Lục
Vân Tiên là một tác phẩm được sáng tác để
kể hơn là để xem nên cách
chuyển ư rất đơn giản và thoải mái.
Từng chương, mục trong tác phẩm không đ̣i
hỏi sự liền mạch và nhất quán v́ ở
mỗi chương, mục là một nội dung, là
một câu chuyện riêng. Ta vẫn có có thể đọc
từng hồi, từng thứ, từng đoạn nhưng
vẫn hiểu mục đích và nội dung của tác
phẩm. Chẳng hạn như đoạn thương ghét
của ông Quán, sự triết lư của ông Quán, ông Ngư,
ông Tiều về sự đời, hay những đoạn
chế giễu sự khoác lác, bịp bợm của
bọn lang băm, thầy bói, thầy pháp… đều gây
ấn tượng mạnh mẽ:
Pháp
rằng: Aán đă cao tay
Lại
thêm phù chú xưa nay ai b́
Qua
sông cá thấy xếp vi
Vào
rừng cọp thấy phải quỳ lại thưa
…
Cuối
cùng cũng lộ rơ mục đích thực dụng
của chúng:
Th́
Thầy sắm sửa lập đàn chạy cho.
3.Ngôn
ngữ:
Tác
phẩm này được sáng tác trong hoàn cảnh mù ḷa
nên nhiều chỗ c̣n thô vụng. Tuy nhiên ngôn ngữ
trong Lục Vân Tiên phục vụ đắc lực cho
việc kể. Phần nhiều là những lời thơ nôm
na, mộc mạc, chất phác, dễ nhớ, dễ
truyền miệng trong dân gian.
4.Sử
dụng thành ngữ, ca dao:
Thành
ngữ, ca dao đă tham gia h́nh thành Lục Vân Tiên khá
độc đáo. Thí dụ như đoạn đối
đáp của ông quán với Trịnh Hâm…
5.Điển
cố:
Điển
cố được lấy từ tích các truyện Tàu, là
những điển tích quen thuộc với nhân dân. Ví
dụ như đoạn Tử Trực mắng cha con Vơ
Thể Loan; đoạn thương ghét của ông Quán…
6.Xây
dựng tính cách nhân vật:
Trong
tác phẩm Lục Vân Tiên có đoạn nhà thơ đặt
chân vào hoàn cảnh có kịch tính, có nhiều chỗ nhân
vật cần bộc lộ tâm trạng nhưng nhà thơ
chưa thể hiện hết tâm trạng đó. V́
vậy, tâm lư nhân vật c̣n nhiều khô khan, g̣ bó, gượng
gạo. Đoạn Lục Vân Tiên cứu Nguyệt Nga, đoạn
sum họp.
Lục
Vân Tiên là tác phẩm cuối cùng kết thúc một giai
đoạn văn học. Tác phẩm đă
kế thừa nhiều mặt truyền thống củ văn
học nhân gian, của truyện thơ Nôm b́nh dân, đă
thể hiện trữ t́nh đạo đức và tính nhân
dân sâu sắc.
2.1.Đặc
điểm về thơ văn yêu nước chống Pháp:
-
Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đ́nh Chiểu
thể hienä tư tưởng nhân nghĩa. Nguyễn Đ́nh
Chiểu đă kế thừa tư tưởng nhân nghĩa
của cha ông trong kháng chiến chống ngoại xâm. Tiêu
biểu là tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trăi:
Quân
điếu phạt trước lo trừ bạo.
-
Trong thơ văn yêu nước của Nguyễn Đ́nh
Chiểu, tư tưởng nhân nghĩa được
mở rộng thành lời kêu gọi động viên kêu
gọi cứu nước:
Mến
nghĩa bao đành làm phản nước
(Dương
Tử-Hà Mậu)
Ông
đă từng tâm niệm:
Đă
v́ nước phải theo một phía
Và
sử dụng thơ văn yêu nước làm vũ khí
đấu tranh sắc bén:
Chở
bao nhiêu đạo thuyền không khẳm.
Đâm
mấy thằng gian bút chẳng tà
-
Nguyễn Đ́nh Chiểu đă xác định vị trí
chiến đấu của ḿnh, vị trí vinh quang gắn
liền với truyền thống của người trí thưc
Việt Nam. Thơ văn yêu nước của Nguyễn
Đ́nh Chiểu giữ vị trí tiên phong của thời
đại, cả mở đầu lẫn dẫn đầu,
cả về chiều sâu lẫn độ cao, độ chín.
Đó là bước phát triển vượt bậc nhưng
vẫn nhất quán và liền mạch.
2.2.Các
nhân vật chính trong thơ văn yêu nước chống
Pháp:
1.Nhân
vật là người nông dân đánh Tây:
1.1.Vị
trí của người dân trong văn chương:
Trước
đây vai tṛ của người dân chưa được
đề cao trong văn chương. Trong giai đoạn trước
Nguyễn Đ́nh Chiểu, người dân cũng giữ vai
tṛ quan trọng nhưng chua quyết định như giai
đoạn này. Nhân dân chỉ là lực lượng
phục tùng. Số phận của họ được
định đoạt dựa vào nhà nước phong
kiến.
Trong
thơ văn yêu nước, vai tṛ người dân nổi
bật hơn trước. Họ trở thành người
dân mộ nghĩa, thành trang dẹp loạn. Trong số
ấy có người là Dân ấp, dân lân, những người
nông dân Nam bộ cùng khổ lúc bấy giờ. Họ
trở thành nhân vật chính mà sử sách gọi là người
nghĩa sĩ nông dân và Nguyễn Đ́nh Chiểu đă
viết về họ như những người anh hùng
của thời đại.
1.2.Cái
nh́n mới mẻ về người nông dân trong cuộc
đấu tranh chống Pháp:
Từ
Chạy Tây đến Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc, người dân Nam bộ đă đi những bước
thật dài và cái nh́n của Đồ Chiểu cũng
tiến những bước thật dài. Ở Chạy Tây là nhân dân và ở Văn tế nghĩa sĩ
Cần Giuộc là người nông dân.
Nguyễn
Đ́nh Chiểu đă khái quát về thời cuộc và
đánh giá khái quát về cuộc đời nhân vật,
kể về cuộc đời nhân vật là người
nông dân nghèo khổ, chưa quen với việc cung kiếm
binh đao bỗng chốc trở thành người nông dân
đánh Tây. Họ yêu nước, tự ư thức
được nghĩa vụ của ḿnh nên chiến đấu
rất dũng cảm kiên cường và lập nên
những chiến công hiển hách:
Nào
đợi ai đ̣i, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn
ḱnh;
chẳng
thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc
ra tay bộ hổ.
Khá
khen thay! Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo
ṿng ở lính diễu binh,
chẳng
qua là dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu
mộ.
Mười
tám ban vơ nghệ, nào nơi tập rèn, chín chục
trận binh thư không chờ bày bố.
Ngoài
cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao
tấu, bầu ng̣i;
trong
tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón
gơ.
Hỏa
mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xonh nhà
dạy đạo kia;
gươm
đeo dùng bằng lưỡi dao
phay cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi
nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục,
đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như
không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ,
đạn to, xô của xông vào liều ḿnh như
chẳng có.
Kẻ
đâm ngang, người chém ngược làm cho mă tà, ma ní
hồn kinh;
Bọn
hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu chiếc, tàu
đồng, súng nổ.
(Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Ng̣i
bút Nguyễn Đ́nh Chiểu đă ca ngợi họ và
khắc sâu vào tâm trí h́nh ảnh bất tử của nghĩa
quân, nhắc lại quá tŕnh chiến đấu gian
khổ mà người nông dân Cần Giuộc đă
trải qua. Đó là con đường của dân tộc
đă đi từ bấy
đến giờ, rất thực và cũng rất thơ.
1.3.Tấm
ḷng của nhà thơ:
T́nh
cảm của nhà thơ đối với người
đă mất cũng như đối với người
c̣n sống là rất nhân hậu và thành thực. Nhà thơ
đau xót trước sự hy sinh của nghĩa quân và
trút trách nhiệm ấy lên bọn vua quan bán nước.
V́
ai khiến dưa chia khăn xé, nh́n giang sơn ba tỉnh
luống thêm buồng.
Biết
thuở nào cờ phất, trống rung, hỡi nhật
nguyệt hai vầng sao chẳng đoái
Tác
giả thương người c̣n sống, thương
mẹ già, vợ góa, con côi… t́nh cảm đó được
diễn đạt bằng những câu thơ rất năo nùng.
Đau
đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn
đèn khuya leo lét ở trong lều.
Năo
nùng thay vợ yếu chạy t́m chồng, cơn bóng
xế dật dờ trước ngơ
Nhà
thơ c̣n nghĩa đến quê hương, đến
đồng bào trong cơn lửa loạn và nhỏ lệ
khóc thương
Binh
tướng nó hăy đóng ở sông Bến Nghé làm cho
bốn phía mây đen.
Ông
cha ta c̣n ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng
một phường con đỏ
2.Nhân
vật là người sĩ phu kháng Pháp:
Là
những lănh tụ nghĩa binh chống Pháp như Trương
Định, Phan Ṭng… Nhà thơ đă ca ngợi, nhắc
nhở, ghi công trạng của họ.
Ca
ngợi Trương Định, Phan Ṭng V́ nước, giúp
đời, xem thường cái chết Anh
hùng thà thác chẳng đầu Tây. H́nh ảnh của
họ rất hiên ngang, đẹp đẽ, đi vào
lịch sử và mang đậm nét bi hùng:
Làm
người trung người đáng bia son
Đứng
giữa càng khôn tiếng chẳng ṃn
Cơm
áo đền bồi ơn đất nước
Tinh
thần hai chữ phau sương tuyết
Khí
phách ngh́n thu rỡ núi non
(Điếu
Phan Ṭng)
Có
thể nói, qua nguyên mẫu một Trương Định,
Phan Ṭng, Nguyễn Đ́nh Chiểu đă dựng lên h́nh tượng
người sĩ phu tiêu biểu cho cả một tầng
lớp kẻ sĩ ưu tú nhất của thời đại
lúc bấy giờ.
3.Nhân
vật là người trí
thức bất hợp tác với kẻ thù:
H́nh
ảnh Kỳ Nhân Sư trong tác phẩm Ngư Tiều y
thuật vấn đáp là tiêu biểu cho người tri
thức bất hợp tác với kẻ thù. Nhân Sư
đă tự xông mắt cho mù để khỏi làm sĩ
liêu, làm thái y cho giặc (Thà đui mà giữ đạo
nhà). Đây là hành động tự hủy để
giữ thân, giữ đạo:
Ḷng
đạo xin tṛn một tấm gương.
Nhưng
Nhân Sư không hề bỏ rơi trách nhiệm của ḿnh,
luôn làm điều thiện để thực hiện thiên
chức cao cả: Làm thuốc, dạy thuốc chữa
bệnh cho dân, tập hợp và giác ngộ những người
dân yêu nước, đợi thời cơ ra cứu nước:
Hỡi
bạn y lâm ai có hỏi
Đ̣
xưa bến cũ có ta đây
Từ
thái độ của Nhân Sư có thể thấy
được thái độ của Nguyễn Đ́nh
Chiểu: Yêu nuớc nhưng bất lực đến dày
ṿ tâm hồn:
Đă
cam chút phận dở dang
Mặc
dù bất lực nhưng tác phẩm vẫn thể
hiện được niềm tin tưởng lạc quan vào
tương lai dân tộc:
Bao
giờ nhật nguyệt dày gương sáng
Bốn
bể câu ca hiệp một nhà
Và
điều cảm động là tấm ḷng của nhà thơ
trước sau cũng đều thuộc về dân,
về nước, thủy chung, son sắt:
Mắt
nh́n trong tiết thanh minh,
U
Yên đất cũ cảnh t́nh trêu ngươi.
Trăm
hoa nửa khóc nửa cười,
Như
tuồng xiêu lạc gặp người cố hương.
Cỏ
cây đưa nhánh đón đường,
Bên
non đá cụm cuối đầu,
Như
tuồng oan khuất lạy cầu cứu sinh.
Líu
lo chim nói trên cành,
Như
tuồng kẻ mách t́nh h́nh dân đau.
Ngày
xuân mà cảnh chẳng xuân,
Mưa
sầu, gió tủi biết chừng nào thanh!
Có
thể thấy ba nhân vật chính đă trở thành văn
chương. Ba nhân vật nhưng cùng mộ tấm ḷng,
một thái độ. Tấm ḷng đối với dân
và thái độ đối với kẻ thù. Đó cũng
là mẫu người và
cách sống cao đẹp nhất
mà khuôn khổ lúc bấy giờ quy định và cho
phép.
Lục
Vân Tiên là tác phẩm đầu tiên của nhân dân Nam
bộ có tiếng vang và được
đón nhận mang tầm cả nước và đến
thơ văn yêu nước, Nguyễn Đ́nh Chiểu không
chỉ đứng đầu và mở đầu của v
ăn chương yêu nước
mà c̣n đưa ông lên hàng tác gia lớn của
văn chương cả nước trong ḍng chủ
lưu này.
Nguyễn
Đ́nh Chiểu xứng đáng là tấm gương
phản ánh hiện thực xă hội miền Nam
nửa sau thế kỷ XIX và trong thực tế ông là
lá cờ đầu trong của ḍng văn học yêu nước
Nguyễn Đ́nh Chiểu là người trí sĩ yêu nước,
một nhà thơ lớn của nước ta và sự
nghiệp của Nguyễn Đ́nh Chiểu là tấm gương
sáng nêu cao địa vị và tác dụng của văn
học nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người
chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng
(Phạm Văn Đồng)