Chương 4
HUY CẬN
Đời
chúng ta nằm trong ṿng chữ tôi. Mất bề rộng,
ta đi t́m bề sâu.Nhưng càng đi sâu, càng lạnh.
Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường
t́nh cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn
Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân
Diệu. Nhưng động tiên đă khép, t́nh yêu không
bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm
vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về
hồn ta cùng Huy Cận.
(Hoài
Thanh)
Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31-5-1919
tại xă Ân Phú,
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là
huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Bố là nhà
nho, đậu tam trường, làm hương sư, sau
về quê dạy chữ Hán. Mẹ là một cô gái ở
vùng quê có nghề dệt lụa truyền thống (xă Tùng
Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Cả
hai đều yêu văn chương và rất thuộc
truyện Kiều.
- Quê Huy Cận là một vùng bán sơn địa,
đẹp và nghèo; cảnh vật hùng vĩ, c̣n giữ
nguyên vẻ hoang sơ. Người dân ở đây
rất mê hát ví dặm, kể truyện thơ Nôm.
- Không khí gia đ́nh thường nặng nề
với nhiều xung đột giữa các thế hệ.
Cậu bé Huy Cận rất thích lang thang giữa trời
đất bao la cùng những tṛ chơi dân dă (thả
diều, đánh trống đất); được
gần gũi với đất đai đồng ruộng
và cuộc sống người nông dân; từ đó, năng
lực nhạy cảm trước những biểu
hiện tinh tế của tạo vật và ḷng yêu mến,
trân trọng thiên nhiên, con người có điều
kiện nảy nở.
Có thể nói hồn thơ Huy Cận thành h́nh và
được vun đắp bởi truyền thống văn
hóa của gia đ́nh, quê hương:
Tôi sinh ra ở miền sơn cước
Đất băi tơi làm da thịt mát
Gió sông như những mảnh hồn bay
- Học chữ Hán với bố và học đến
lớp tư ở quê. Từ lớp năm đến
hết tú tài toàn phần: học ở Huế. Kết
bạn với Xuân Diệu từ 1936. Năm 1939, ra Hà
Nội học Cao Đẳng Nông Lâm. Từ 1941, vừa
học vừa tham gia mặt trận Việt Minh.
- Cách mạng tháng Tám thành công, giữ chức
Bộ trưởng Canh Nông trong chính phủ lâm thời nước
Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Từ tháng 5 đến
tháng 11- 1946: Thứ trưởng Bộ Nội Vụ. Trong
kháng chiến chống Pháp: Thứ trưởng Bộ Canh
Nông, rồi Thứ trưởng Bộ Kinh Tế. Từ
1955, chuyển sang công tacï lănh đạo văn hóa với
chức vụ Thứ trưởng thường trực
Bộ Văn hóa. Từ 1984 đến 1987: Bộ trưởng
đặc trách công tác văn hóa nghệ thuật tại
văn pḥng Hội Đồng Bộ trưởng, kiêm
Chủ tịch Ủy ban trung ương Liên hiệp các
Hội văn học nghệ thuật. Hiện nay, Huy
Cận là Phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên
hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt
Nam.
- Ngoài những hoạt động chính trị, kinh
tế, văn hóa trong nước, Huy Cận c̣n là nhà
hoạt động quốc tế năng động
với nhiều đóng góp lớn. Ông từng là đồng
Chủ tịch Đại hội nhà văn Á Phi họp ở
Ai Cập (02-1962), đồng Chủ tịch Đại
hội văn hóa toàn thế giới họp tại Cu Ba
(01-1968), Ủy viên Hội đồng chấp hành Unesco
(1978-1983), Ủy viên Hội đồng cao cấp các nước
nói tiếng Pháp.
Tác phẩm tiêu biểu:
*
Trước 1945: Lửa
thiêng (1940), Vũ trụ ca (1942), Kinh cầu tự (văn
xuôi triết lư, 1942).
** Sau 1945: Trời
mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960),
Bài thơ cuộc đời (1963), Hai bàn tay em (1967),
Những năm sáu mươi (1968), Cô gái Mèo (1972),
Chiến trường gần đến chiến trường
xa (1973),
Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975), Hạt
lại gieo (1984),
Tuyển tập (1986).
a. Tập thơ Lửa Thiêng:
* Huy Cận bắt đầu sáng tác từ năm
1936 bằng những bài b́nh luận văn học
đăng trên các báo Tràng An, Sông Hương; với bút
danh Hán Quỳ.
- Từ 1938, Huy Cận có thơ trên báo Ngày
nay. Tập thơ đầu tay Lửa
Thiêng ra mắt độc giả vào tháng 11-1940, (bằng
tiền tái bản tập Thơ Thơ của Xuân
Diệu). Đây là thời gian Huy Cận cùng sống với
Xuân Diệu tại số 40 Hàng Than-Hà Nội.
- Gồm 50 bài, một số đă đăng báo,
Lửa Thiêng nhanh chóng được độc giả
nhiệt liệt đón nhận. Chính ngọn lửa thiêng
thắm đượm t́nh người, t́nh đời
đă giúp Huy Cận có được vị trí tiêu
biểu trong làng thơ Mới, giai đoạn cực
thịnh của nó.
* Lửa Thiêng trước hết là tiếng ḷng
của một thanh niên mới lớn (21 tuổi) đang
thể hiện niềm vui, nỗi buồn của chính ḿnh.
Như đa số thơ Mới, tập thơ lấy
tuổi trẻ và t́nh yêu làm đề tài chủ yếu.
Nhưng giữa lúc độc giả đă quá quen
thuộc với giọng nỉ non, sầu năo trong thơ
Mới th́ những cung bậc t́nh yêu dễ thương
ở lứa tuổi học tṛ, lứa tuổi c̣n
nhiều e ấp vẩn vơ, chưa nhuốm mùi nhục
cảm - có sức hấp dẫn mới lạ:
Đường trong làng: hoa dại với mùi rơm
Người
cùng tôi đi giữa đường thơm
Ḷng
giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng
Đất
thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng
Lần
lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu
...
Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bướm vàng nũa chứ
Mà đôi lứa đứng bên vườn t́nh
tự
(Đi
giữa đường thơm)
* Nhưng t́nh yêu ấy vẫn không bền, nhanh chóng
rơi vào vô vọng. Bởi có một nỗi u hoài thường
trực trong tâm hồn, bắt nguồn sâu xa từ bi
kịch bế tắc, vỡ mộng. Thành ra, thơ Huy
Cận vừa hồn nhiên nhất vừa buồn nhất
trong các nhà thơ Mới.
Hỡi Thượng đế! Tôi cúi đầu
trả lại
Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang
Sầu đă chín, xin người thôi hăy hái
Nhận tôi đi, dầu địa ngục, thiên
đường
(Tŕnh bày)
- Buồn thương, sầu năo là âm hưởng chính
khiến Lửa Thiêng như bản ngậm ngùi dài.
Tập thơ dằng dặc một nỗi buồn nhân
thế, một nỗi đau đời. Nhà thơ đă
gọi dậy cái hồn buồn của Đông Á,...đă khơi
lại cái mạch sầu mấy ngh́n
năm vẫn ngấm ngầm trong cơi đất này (Hoài
Thanh). Nỗi buồn như kết quả của quá tŕnh
lắng nghe tinh tế nhịp tuần hoàn vũ trụ và
nỗi ngậm ngùi nhân gian. Đó là tấm ḷng ...tủi
nắng sầu mưa. Cũng đất nước mà
nặng buồn sông núi.
- Cái buồn trong Lửa Thiêng không xuất phát
từ bi kịch cá nhân nhà thơ mà gắn nhiều hơn
với tâm trạng xă hội, với ư thức về thân
phận nô lệ của cả một thế hệ. Trong
lời tựa cho lần xuất bản đầu tiên, Xuân
Diệu có nhận xét: Chàng than nỗi tháng ngày vùn
vụt, bảo rằng hoa xuân không đậu, đời
thoảng mùi ôi, trong khi ḿnh chưa
sống hết tuổi xuân, đang độ trẻ măng
của đời người! Cái tiếc sớm, cái thương
ngừa áy chẳng qua là sự trá h́nh của ḷng ham
đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu
sự sống.
- Triền miên trong buồn thương nhưng Huy
Cận không mất hút vào cơi siêu h́nh hay chán chường,
tuyệt vọng- như không ít nhà thơ Mới. Nhà thơ
vẫn tha thiết, chân thành hướng về phần thiên
lương cao đẹp của cuộc đời;
cảm nghe được hồn thiêng đất nước,
hương vị nồng đượm của quê hương
và nhựa sống tiềm tàng trong nhành cây ngọn
cỏ:
Luống đất thơm hương mùa mới
dậy
Bên đường chân rộn bước trai tơ
Cành xanh cành đẹp xui tay với
Sông mát tràn xuân nưóc đậm bờ
(Xuân)
Lửa Thiêng được viết bằng một
nghệ thuật vững vàng, độc đáo. Âm
hưởng chủ đạo: nhẹ nhàng, thâm trầm, hướng
vào nội tâm. Lời thơ, ư thơ tự nhiên, không
cầu kỳ rắc rối. Cảnh sắc ít đường
nét, giản ước, thanh thoát; tạo được
ấn tượng về
một không gian bàng bạc, xa vắng, đậm đà
phong vị Đường thi (Tràng
giang, Buồn đêm mưa). Ngoài những thể thơ
Mới khá phổ biến, Huy Cận đặc biệt
thành công ở thể lục bát truyền thống.
Với âm hưởng phong phú, h́nh ảnh mới mẻ,
nhà thơ đă góp phần khẳng định khả năng
biểu hiện tinh tế của thể thơ dân tộc
này (Ngậm ngùi, Buồn đêm mưa, Thuyền đi, Trông
lên, Chiều xưa,...).
Những bài thơ tiêu biểu: Tràng giang, Buồn
đêm mưa, Ngậm ngùi, Vạn lư
t́nh, Đi giữa đường thơm, T́nh tự,
Thuyền đi, Chiều xưa, Đẹp xưa, Tŕnh bày,
Mai sau.
b. Từ sau Lửa Thiêng:
- Trong bối cảnh xă hội ngày càng đen
tối, thơ Mới dần đi vào ngơ cụt. Mỗi
nhà thơ loay hoay t́m lối thoát cho riêng ḿnh. Huy Cận
thoát ly vào vũ trụ và thiên nhiên. Ông hoàn chỉnh
cả một hệ thống triết lư ngợi ca niềm
vui siêu thoát ấy trong tập văn xuôi Kinh cầu
tự, năm 1942. Nhà thơ kêu gọi mọi người
trở về ḥa nhập vào tạo vật, t́m nguồn
vui từ thiên nhiên vũ trụ: Có lẽ tạo vật
đau
thương, đất trời vắng lạnh v́ nỗi
ḷng ta xa cách tạo vật đó thôi. Ta hăy trở
về, ta hăy nhập cuộc, có nhịp sống đưa
nâng, có ḍng đời xô đẩy, cái vui lớn, cái vui
trọng đại dâng sóng tràn khắp cơi đời.
- Triết lư ấy được thể hiện
đầy đủ, cụ thể trong Vũ trụ ca -
tập thơ viết năm 1942, chưa in thành sách. Thoát vào
vũ trụ, hồn thơ Huy Cận - với những
cảm xúc mới lạ - trở nên khoáng đạt,
mạnh mẽ hơn. Nhà thơ say sưa với cái vô cùng
của trời đất, trăng sao. Nhiều tứ thơ
hay, nhiều h́nh ảnh rực rỡ xuất hiện:
+ Trời thắm duyên rằm vừng nhạc mở
Chuông sao rung nhớ, tiếng vàng bay
Lượng vui muôn kiếp cân đầu sóng
Biển rủ rê ḷng nhập cuộc say
(Lượng vui)
+ Trời xanh ran lá biếc
Biển chóa ngập buồm vàng
Gió thổi miền bất diệt
Mây tạnh đất hồng hoang
(Trời, Biển, Hoa, Hương)
Huy Cận như gặp lại niềm vui thuở trước,
lại hân hoan, hồ hởi và rạo rực những khát
khao của tuổi trẻ:
Ta vận tấm xuân đi hớn hở
Tâm tư ngào ngạt hiến dâng đời
Thân cũng hát lừng cao nhịp lửa
Hoa thiên thu hẹn nở cùng môi.
(Áo xuân)
- Nhưng một điều rất dễ nhận ra:
cái vui trong Vũ trụ ca là vui gượng, cố vui nên
không trọn vẹn, vẫn mang vẻ chông chênh, vô
vọng. Cho nên đôi khi để đạt ư đồ
nghệ thuật, tác giả rơi vào cường điệu,
cầu kỳ; h́nh ảnh đậm màu sắc tượng
trưng. T́nh th́ mới nhưng ư tứ dễ đơn
điệu, cũ ṃn. Điều này là tất nhiên, bởi
dù có trốn tận đâu vẫn không chạy khỏi chính
ḿnh. Chính cái Tôi giàu cảm xúc, nặng t́nh với đất
nước, dân tộc đă không để yên nhà thơ
trong sự huyễn hoặc:
Về đâu những bước thời gian đă
In dấu mong manh trên cánh đào?
Về đâu hạt bụi vàng thao thức
Theo bánh xe quay ṿng khát khao?
Về đâu ?... Câu hỏi cứ lặp đi
lặp lại như một ám ảnh, day dứt khôn
nguôi về ngày mai, về ư nghĩa của kiếp người.
Những
bài thơ tiêu biểu: Xuân hành, Lượng vui, Áo
xuân, Triều nhạc,...
***
Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận là một trong
số những nhà thơ
tiêu biểu của thơ Mới. Thơ ông là tiếng ḷng
thiết tha gắn bó với quê hương đất nước,
khao khát được hiến dâng tuổi trẻ và tài năng;
nhưng khi vấp phải thực trạng xă hội,
những kỳ vọng ấy đă tan vỡ hoàn toàn. Như
nhiều nhà thơ lăng mạn khác, Huy Cận giai đoạn
này ít thơ vui hơn thơ buồn. Luôn có một
nỗi sầu thường trực trên từng trang thơ
của ông, nhưng đó là biểu hiện sinh động
của bi kịch tâm trạng; đáng được
cảm thông, trân trọng.
Sau khi Lửa Thiêng ra đời một năm, Huy
Cận t́m đến với Cách mạng (hoạt động
trong mặt trận Việt Minh). Như vậy, ánh sáng
của lư tưởng Cộng sản đă manh nha trong
hồn thơ mang mang thiên cổ sầu ấy từ khá lâu
trước 1945. Và sự đổi đời tháng Tám có
ư nghĩa như một bước ngoặt lịch
sử, đưa trang thơ Huy Cận vượt khỏi
những ám ảnh, những giới hạn chật hẹp
do mặc cảm nặng nề về thân phận nô
lệ tạo nên. Như đa số các nhà thơ Mới,
Huy Cận rưng rưng chân thành trở về ḥa
nhập với cuộc sống.
Quan điểm nghệ thuật, lập trường
tư tưởng đă thay đổi căn bản; nhưng
như thế vẫn chưa thể có thơ hay. Cần
một khoảng thời gian nhất định - tùy t́nh
trạng tâm tưởng của mỗi nghệ sĩ -
để những rung động ban đầu được
nung, được nén lại thành cảm xúc nghệ
thuật. Mặt khác, mọi sự thay đổi đều
cần được thử thách qua thực tế. Thơ
Huy Cận sau 1945 thể hiện rơ quá tŕnh đấu tranh
tự khẳng định sự góp mặt của một
nhà thơ lớp trước, vào cuộc sống mới.
Mười ba năm sau, 1958, mới có một tập thơ
(Trời mỗi ngày lại sáng), rơ ràng hành tŕnh từ
thung lũng đau thương ra cánh đồng vui ở
Huy Cận không giản đơn chút nào.
a. Thơ Huy Cận từ 1945 đến kháng chiến
chống Mỹ:
Khoảng thời gian này, có 04 tập thơ tiêu
biểu, ghi nhận quá tŕnh chuyển biến và sự
hồi sinh mănh liệt của hồn thơ Huy Cận:
Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất
nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Hai bàn
tay em (1967).
- Phải mất hơn mười năm trăn
trở, phấn đấu không ngừng tự vượt
lên thoát khỏi ám ảnh cũ, hồn thơ Huy Cận
mới hồi sinh và khởi sắc. Vốn quen quanh
quẩn sống bằng ảo vọng, thích phiêu diêu vô
định lánh đời trong vũ trụ, giờ
bừng mắt giữa cuộc đời thực; vui đấy,
nhưng không khỏi ngỡ ngàng, mặc cảm. Ngập
ngừng, dè dặt khoác ba lô lên vai, Huy Cận đi vào kháng
chiến. Hồn thơ ông thắm hồng da thịt
trở lại cùng với sự hồi sinh vĩ đại
của cả dân tộc.
- Thế giới thơ Huy Cận trước kia
hầu như thiếu hơi người, vắng những
sắc màu âm thanh b́nh thường của sự sống,
nên hoang sơ cô tịch. Chỉ c̣n một ḿnh nhà thơ
rợn ngợp giữa không gian, ch́m khuất trong nỗi
mang mang thiên cổ sầu. Giờ đây, nhà thơ mở
rộng tâm hồn cho cuộc sống ùa vào. Vẫn c̣n
đó năng lực cảm nghe tinh tế mạch đời
bền bỉ, vẫn không nguôi niềm khắc khoải không
gian, nhưng giữa con người với thiên nhiên đă
có mối giao ḥa kỳ diệu:
Giọt mưa cũ ố vàng thơ phú
Triều mưa nay đoàn tụ lúa xanh
Cũng là thức giữa năm canh
Mưa xưa lạnh lẽo, an lành mưa nay
(Mưa mười năm)
- Huy Cận phát huy sở trường bằng
việc phát hiện chất thơ biểu hiện tinh vi,
phong phú trong đời thường.
Dường như mọi biểu hiện của cuộc
sống b́nh dị - qua cái nh́n của nhà thơ - đều
nên nhạc, nên thơ. Ông say sưa ngợi ca một khu nhà
mới, đoàn thuyền đánh cá, những ngày hội mùa
xuân,...Con người mới trong lao động xây
dựng đất nước thành h́nh tượng
thật khỏe khoắn, lạc quan, chan chứa nghĩa t́nh:
Anh tặng em buổi sáng hôm nay
Có hoa sen nở hồ Tây trắng hồng
Tặng em trời mát như sông
Trong veo chảy giữa đôi ḍng cây xanh
(Buổi sáng hôm nay)
- Chính nhờ hút nhụy từ đời sống
xanh tươi, hồn thơ Huy Cận có được
nguồn sinh lực mới. Cuộc sống mới giúp nhà
thơ nhận ra chân giá trị của lao động và
vẻ đẹp chân chính của người lao động.
Thiên nhiên tạo vật không c̣n đối lập với
con người mà cùng con người hợp thành bức
hoành tráng chói chang, rạng rỡ (Đoàn thuyền đánh cá).
* Thời kỳ này đánh dấu một bước
chuyển biến mới của hồn thơ Huy Cận.
Mỗi tập thơ là một nỗ lực lớn,
tự vượt lên để khẳng định sự
góp mặt vào cuộc đời mới. Với ư nghĩa
đó, thơ Huy Cận c̣n củng cố nhận thức
về cuộc đổi đời lịch sử và
bồi đắp những t́nh cảm trong sáng, lành
mạnh.
b.
Thơ Huy Cận trong kháng chiến chống Mỹ:
Trong kháng chiến chống Mỹ, Huy Cận đă góp
tiếng thơ ḿnh vào việc phản ánh những sự
kiện, những vấn đề trọng đại
của chiến tranh. Bằng nhiều chuyến đi
thực tế vào tuyến lửa, nhà thơ kịp
thời chuyển biến cách nh́n, cách nghĩ cho phù
hợp với giai đoạn cách mạng mới.
Liên tiếp ra đời nhiều tập thơ có giá
trị: Những năm sáu mươi (1968); Chiến trường
gần đến chiến trường xa (1973); Những
người mẹ, những người vợ (1974); Ngày
hằng sống, ngày hằng thơ (1975).
- Trong khuynh hướng chung của thơ chống
Mỹ, thơ Huy Cận tăng cường tính thời
sự và tập trung vào việc khẳng định,
ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng miền Nam.
Từ thế đứng hùng vĩ và tầm vóc lớn
lao của dân tộc trên tuyến đầu chống
Mỹ, Huy Cận càng có điều kiện để suy
ngẫm về quá khứ và hướng về tương
lai; từ truyền thống dân tộc đến quan
hệ với thế giới, với thời đại.
Giữa ngất trời đạn bom, cái nh́n của nhà
thơ vẫn hướng về öphía khái quát để
phát hiện ra những tầng sâu văn hóa truyền
thống của đời sống con người Việt
Nam:
Sống vững chải bốn ngàn năm sừng
sững
Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa
Trong và thật: sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan ḥa
(Đi trên mảnh đất này)
- Tính chính luận, suy tưởng thể hiện rơ
trong nhiều bài thơ. Xuất phát từ những sự
kiện chính trị-xă hội hay những chi tiết
cụ thể của đời sống, nhà thơ mở
rộng liên tưởng để khám phá bề sâu
triết lư của vấn đề.
Trước ngă ba Đồng Lộc - một trọng
điểm trên tuyến đường vào Nam, nơi ghi
dấu sự hy sinh dũng liệt của 10 cô gái phá bom -
Huy Cận nghĩ đến ư nghĩa quyết định
của những ngă ba trong đời mỗi người,
mỗi dân tộc:
Qua trái tim ngă ba Đồng Lộc
Máu qua tim máu lọc
Xe vượt ngă ba xe xốc tới miền Nam
...Những ngă ba Việt Nam
Trên đường dài kẻ địch c̣n găm
Nhiều bom nổ chậm
...Đường sẽ thông xe đi về Cách mạng
(Ngă ba Đồng Lộc)
Bằng những h́nh ảnh giản dị, cụ
thể, Huy Cận tập trung ngợi ca sức quật
khởi, sức sống bất diệt và phong thái ung dung
của con người Việt Nam. Nhà thơ đi đến
một khái quát có ư nghĩa nhân văn sâu sắc về
cuộc kháng chiến chống Mỹ: đây là cuộc
chiến đấu và chiến thắng của nhân nghĩa
trước bạo tàn phi nghĩa, của sự sống trước
sự hủy diệt. Nhận thức này thấm sâu trong
cảm xúc và h́nh tượng thơ, tạo nên tâm
thế b́nh tỉnh, tự tin của cả một dân
tộc anh hùng trước những thử thách ác
liệt. Trong Giờ trưa, cuộc sống vẫn êm
đềm diễn ra với tiếng chim hót, nhện giăng
tơ, gà cục tác,... bất kể sự lồng lộn
của con ma Mỹ
Buổi trưa ấm lại bốn bề tiếp
tục
Con gà mái lại đâu đây cục tác
Báo với đời thêm một trứng tṛn to
Anh bộ đội ngoái đồng ngồi trên mâm
pháo bóng tṛn vo
Chân lư góp thêm một cách nghĩ, thật giản
dị, nhưng đầy triết lư về cuộc
kháng chiến trường kỳ
Đủ tháng năm ta sẽ đánh giặc xong
Trái chín cây đâu
phải chín nóng ḷng
- Quê hương đất nước, nông thôn
Việt Nam luôn là đề tài quen thuộc, không thể
thiếu trong thơ Huy Cận. Thời chống Mỹ,
đó là những làng quê yên ả với nhịp sống
tưởng như b́nh lặng nhưng luôn có nhiều xao
động tinh tế. Vẻ đẹp truyền thống
đang có nhiều đổi thay cho phù hợp với
thời đại mới
Gà gáy trong mưa vẫn tiếng vang
Giọng kim, giọng thổ rộn vang đồng
Được mùa giống mới, gà no bữa
Tiếng gáy tṛn như lúa nặng bông
(Gà
gáy trên cánh đồng Ba V́ được mùa)
***Hai
bàn tay em (tập thơ cho thiếu nhi):
Huy Cận rất yêu mến và quan tâm đến
trẻ con. Nhà thơ dành hẳn một tập thơ cho các
em. "Hai bàn tay em" khai thác đề tài từ
những sự vật, khung cảnh gần gũi với
cuộc sống của trẻ con (con cóc, con ve, con dế, cái
chong chóng, buổi trưa hè,...); những khía cạnh t́nh
cảm gia đ́nh thân thuộc (cha mẹ-con cái, anh
chị-em, ông bà-cháu); những câu chuyện lịch
sử, những tấm gương thiếu niên anh hùng.
Tập thơ như những bài học nhằm giáo
dục các em ḷng yêu quê hương đất nước,
yêu con người, yêu lao động, tinh thần đoàn
kết,...Không là những lời giáo huấn khô khan,
tiếng thơ Huy Cận rất hồn nhiên, ngộ nghĩnh
nên dễ đi vào tâm trí trẻ thơ:
-
Buổi trưa lim dim
Ngh́n con mắt lá
Bóng cũng nằm im
Trong vườn êm ả
-
Bé gọi con dế
Quen nấp đầu hồi
Dế kêu the thé
Giật ḿnh bưởi rơi
*Từ
1975 đến nay, Huy Cận vẫn sáng tác đều
đặn. Gác lại chuyện chiến tranh, tâm hồn nhà
thơ trở về với mạch cảm xúc quen thuộc
của cuộc đời hàng ngày quanh ḿnh; lại say mê
thiên nhiên, vũ trụ và nghiền ngẫm, suy tư
về sự sống con người. Những tập thơ
tiêu biểu: Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại
gieo (1984), Chim làm ra gió (1989), Lời tâm nguyện cùng hai
thế kỷ (1997).
Thơ Huy Cận tiếp tục phát triển theo hướng
suy tưởng, hướng nội hơn; có khuynh hướng
chiêm nghiệm về ư nghĩa nhân sinh cao cả từ
những biểu hiện b́nh dị của đời thường:
Yêu măi, yêu rồi, đâu hết yêu
Cuộc đời như miếng đất ph́ nhiêu
Trồng bao nhiêu vụ c̣n tươi tốt
Hạt gặt xong rồi, hạt lại gieo
(Hạt
lại gieo)
1. Huy Cận có năng lực cảm nhận cuộc
sống thật đặc biệt, có thể nghe được
từ những biểu hiện tinh vi của tạo vật
đến những biến đổi lớn lao trong vũ
trụ vô cùng vô tận. Đây là nhà thơ có "cái nghiêng
tai kỳ diệu"(Xuân Diệu). Huy Cận cảm
nhận được trọn vẹn từ những mùi
vị dân dă của đất đai đồng ruộng
đến lời ru của gió, nhịp thở của
biển, để rồi nói lên linh hồn của
cảnh sắc thiên nhiên bằng giai điệu trong
trẻo, dễ rung động ḷng người.
+ Trước 1945, tuy vật vă với nỗi sầu
đau nhưng thiên nhiên trong thơ Huy Cận vẫn
thấm thía t́nh người, t́nh đời (Ngậm ngùi,
Tràng giang, Buồn đêm mưa):
-
Đêm mưa làm nhớ không gian
Ḷng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn
-
Nắng chia nửa băi, chiều rồi
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu
Sợi buồn con nhện giăng mau
Em ơi hăy ngủ, anh hầu quạt đây
Từ sau Cách mạng tháng Tám, tiếng thơ trở
nên đằm thắm, sâu nặng nghĩa t́nh; cảnh
sắc thiên nhiên ấm áp, xôn xao hơn nhiều:
Chiều thu trong, lá trúc vờn đẹp quá
Lá mía xanh nhung quạt vào mái rạ
Tiếng lao xao như ai ngả nón chào
Hoa mướp cuối mùa vàng rực như sao
Giếng trong lẻo, trời xanh in thăm thẳm
(Chiều thu quê hương)
+ Năng lực ấy không chỉ có được
bằng sự tinh nhạy của các giác quan (rèn dũa
trong những năm tháng tuổi thơ, sống ở quê hương)
mà c̣n xuất phát từ chiều sâu tâm hồn nhà thơ
- một tâm hồn luôn rộng mở để đón
nhận đủ đầy âm vang mọi phía đời
sống.
+ Có thể nói: thiên nhiên, quê hương đất
nước là nguồn cảm hứng vô tận trong thơ
Huy Cận. Nếu ở Xuân Diệu, thiên nhiên thường
sực nức hương vị và ngôn ngữ ái t́nh th́
ở Huy Cận, núi sông cây cỏ bao giờ cũng
lặng lẽ, b́nh thản như tâm hồn tác giả. Không
thể h́nh dung được thơ Huy Cận sẽ ra sao
nếu thiếu đi nắng vàng, trời xanh, gió
biếc, biển rộng, sông dài,... Nhưng thơ ấy
không thuộc loại thơ điền viên, bởi trước
sau tác giả vẫn luôn nặng ḷng đời, luôn có ư
thức phát hiện rồi khẳng định sự hài
ḥa giữa con người với tự nhiên; để
mở rộng biên giới những xúc cảm, nâng tầm
nhận thức về sự tồn tại của con người.
"Thơ viết về đất nước, thiên nhiên
và quê hương là một điểm mạnh của Huy
Cận. Dường như
ở đây nhà thơ đă toát ra một mảng hương
sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn ḿnh"
(Xuân Diệu).
2. Hồn thơ Huy Cận luôn vận động
giữa nhiều đối cực: vũ trụ-cuộc
đời, sự sống-cái chết, nỗi
buồn-niềm vui, hiện thực-lăng mạn.
+ Vũ trụ và cuộc đời luôn song hành
tồn tại, thành hai cực hấp dẫn hồn thơ
Huy Cận. Thơ ông ngày càng gắn bó với đời,
nhưng cảm hứng về cuộc đời không tách
rời cảm hứng về vũ trụ. Vươn lên t́m
hiểu những bí ẩn của không gian vô cùng cũng
đồng thời nh́n về trái đất để
hiều hơn chính ḿnh. Khát vọng ấy mang bản
chất triết lư, nhân văn cao cả. Bởi đích
đến cuối cùng của nó không phải cơi siêu h́nh
nào mà chính là mặt đất, cơi sống của con người.
+ Huy Cận viết khá nhiều về cái chết,
về sự tương phản nghiệt ngă giữa
hữu hạn đời người với cái vô hạn
của tạo hóa. Sự sống là bất tử, vũ
trụ là vô cùng nhưng con người không thể tránh
được cái chết. Nghĩ đến lúc từ giă
cơi đời, nhà thơ không khỏi xót xa nuối
tiếc. Nhưng đó không là biểu hiện của thái
độ ham sống sợ chết tầm thường mà
là của khát vọng được cống hiến
hết ḿnh, được tái sinh:
Rồi một ngày kia giă cơi đời
Xin cho gieo hạt hết trong tay
Chứ tay c̣n nắm chưa vơi hạt
Mà phải ra về cực lắm thay
(Hạt lại gieo)
Đời thân yêu, một ngày mai ta chết
Cho ta đi khi hè chói chang trưa
Để ta hiểu giă từ chưa phải hết
Nằm đất quen như hạt chín sang mùa
(Say mùa hè)
+ Nỗi buồn và niềm vui ở Huy Cận đều
được đẩy đến cực đoan: lúc
buồn-buồn đến ảo năo, thê thiết; khi
vui-vui tràn trề, dào dạt. Hành tŕnh tâm tưởng
của Huy Cận đi từ nỗi buồn sâu đến
niềm vui lớn. Cảm nhận, thể hiện rơ hai
đối cực này chứng tỏ nhà thơ rất
thiết tha với cuộc đời và ư thức đầy
đủ về thân phận con người. Khi nỗi
buồn được ư thức, hóa thành nỗi đau
đời; khi niềm vui được ư thức, sẽ
thành hạnh phúc, tin yêu.
+ Cảm hứng nghệ thuật của Huy Cận, trước
1945, có sự phân cực khá rơ giữa hiện thực và
lăng mạn. Từ sau 1945, hai đối cực ấy
dần dần đạt đến độ ḥa hợp
cần thiết, trên cơ sở sự thống nhất
giữa lư tưởng và hiện thực trong cuộc
sống mới.
3. Huy Cận là nhà thơ lớn, nhà văn hóa
lớn tầm cỡ thế giới. Tuy am hiểu nhiều
nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ
ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.
Suối nguồn thơ ca truyền thống đă rót vào tâm
hồn Huy Cận những giai điệu du dương,
khiến cho tiếng thơ - những khi đạt đến
độ thuần thục - rất dễ đi vào ḷng người.
Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ năm
chữ của dân ca Nghệ Tĩnh - trong tay Huy Cận -
vừa mộc mạc chân t́nh vừa lắng đọng,
hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy
rơ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc khắp các tứ
thơ. H́nh ảnh thơ Huy Cận thường không
sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà thâm
trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu
vào tâm hồn và trí tuệ người đọc.
Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường
rất ít đường nét, giản ước theo bút pháp
cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó,
có thể nói: ấn tượng không gian có được
- trước hết - nhờ phong vị Đường thi.
Con đường thơ của Huy Cận khá tiêu
biểu cho lớp nhà thơ thuộc thế hệ thứ
nhất, văn học Việt Nam hiện đại.
Từ một thành viên xuất sắc của phong trào thơ
Mới, Huy Cận đến với Cách mạng, t́m
thấy mục đích, lư tưởng chân chính cho
tiếng nói nghệ thuật của ḿnh và trở thành
một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca
Việt Nam hiện đại.
Với vốn văn hóa sâu rộng, năng lực xúc cảm, suy nghĩ phong phú và quan điểm nghệ thuật rơ ràng, Huy Cận đă góp vào thi đàn một tiếng thơ có hương sắc riêng, làm rạng rỡ diện mạo tâm hồn dân tộc.