Previous Index Next Home


Chương 4

HUY CẬN 

  1. TIỂU SỬ:

  2. QUÁ TR̀NH SÁNG TÁC:  

    1. Thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám:

    2. Thơ Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám:

  3. PHONG CÁCH THƠ HUY CẬN

  4. KẾT LUẬN CHUNG:


HUY CẬN 

Đời chúng ta nằm trong ṿng chữ tôi. Mất bề rộng, ta đi t́m bề sâu.Nhưng càng đi sâu, càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường t́nh cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đă khép, t́nh yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.

(Hoài Thanh) 

I- TIỂU SỬ:

            Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, sinh ngày 31-5-1919 tại xă Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Bố là nhà nho, đậu tam trường, làm hương sư, sau về quê dạy chữ Hán. Mẹ là một cô gái ở vùng quê có nghề dệt lụa truyền thống (xă Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Cả hai đều yêu văn chương và rất thuộc truyện Kiều.

            - Quê Huy Cận là một vùng bán sơn địa, đẹp và nghèo; cảnh vật hùng vĩ, c̣n giữ nguyên vẻ hoang sơ. Người dân ở đây rất mê hát ví dặm, kể truyện thơ Nôm.

            - Không khí gia đ́nh thường nặng nề với nhiều xung đột giữa các thế hệ. Cậu bé Huy Cận rất thích lang thang giữa trời đất bao la cùng những tṛ chơi dân dă (thả diều, đánh trống đất); được gần gũi với đất đai đồng ruộng và cuộc sống người nông dân; từ đó, năng lực nhạy cảm trước những biểu hiện tinh tế của tạo vật và ḷng yêu mến, trân trọng thiên nhiên, con người có điều kiện nảy nở.

   Có thể nói hồn thơ Huy Cận thành h́nh và được vun đắp bởi truyền thống văn hóa của gia đ́nh, quê hương:  

                           Tôi sinh ra ở miền sơn cước

                  CÓ NÚI LÀM XƯƠNG CỐT THÁNG NGÀY

                           Đất băi tơi làm da thịt mát

                           Gió sông như những mảnh hồn bay

   - Học chữ Hán với bố và học đến lớp tư ở quê. Từ lớp năm đến hết tú tài toàn phần: học ở Huế. Kết bạn với Xuân Diệu từ 1936. Năm 1939, ra Hà Nội học Cao Đẳng Nông Lâm. Từ 1941, vừa học vừa tham gia mặt trận Việt Minh.

   - Cách mạng tháng Tám thành công, giữ chức Bộ trưởng Canh Nông trong chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng ḥa. Từ tháng 5 đến tháng 11- 1946: Thứ trưởng Bộ Nội Vụ. Trong kháng chiến chống Pháp: Thứ trưởng Bộ Canh Nông, rồi Thứ trưởng Bộ Kinh Tế. Từ 1955, chuyển sang công tacï lănh đạo văn hóa với chức vụ Thứ trưởng thường trực Bộ Văn hóa. Từ 1984 đến 1987: Bộ trưởng đặc trách công tác văn hóa nghệ thuật tại văn pḥng Hội Đồng Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Ủy ban trung ương Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật. Hiện nay, Huy Cận là Phó chủ tịch Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam.

   - Ngoài những hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa trong nước, Huy Cận c̣n là nhà hoạt động quốc tế năng động với nhiều đóng góp lớn. Ông từng là đồng Chủ tịch Đại hội nhà văn Á Phi họp ở Ai Cập (02-1962), đồng Chủ tịch Đại hội văn hóa toàn thế giới họp tại Cu Ba (01-1968), Ủy viên Hội đồng chấp hành Unesco (1978-1983), Ủy viên Hội đồng cao cấp các nước nói tiếng Pháp. 

II- QUÁ TR̀NH SÁNG TÁC: 

   Tác phẩm tiêu biểu:

* Trước 1945:  Lửa thiêng (1940), Vũ trụ ca (1942), Kinh cầu tự (văn  xuôi triết lư, 1942).

            ** Sau 1945:  Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960),

                                       Bài thơ cuộc đời (1963), Hai bàn tay em (1967),

                                       Những năm sáu mươi (1968), Cô gái Mèo (1972),

                                       Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973),

                                       Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975), Hạt lại gieo (1984),

                                       Tuyển tập (1986).

1. Thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám:

TOP

   a. Tập thơ Lửa Thiêng:

               * Huy Cận bắt đầu sáng tác từ năm 1936 bằng những bài b́nh luận văn học đăng trên các báo Tràng An, Sông Hương; với bút danh Hán Quỳ.

                - Từ 1938, Huy Cận có thơ trên báo Ngày nay. Tập thơ đầu tay Lửa Thiêng ra mắt độc giả vào tháng 11-1940, (bằng tiền tái bản tập Thơ Thơ của Xuân Diệu). Đây là thời gian Huy Cận cùng sống với Xuân Diệu tại số 40 Hàng Than-Hà Nội.

               - Gồm 50 bài, một số đă đăng báo, Lửa Thiêng nhanh chóng được độc giả nhiệt liệt đón nhận. Chính ngọn lửa thiêng thắm đượm t́nh người, t́nh đời đă giúp Huy Cận có được vị trí tiêu biểu trong làng thơ Mới, giai đoạn cực thịnh của nó.

               * Lửa Thiêng trước hết là tiếng ḷng của một thanh niên mới lớn (21 tuổi) đang thể hiện niềm vui, nỗi buồn của chính ḿnh. Như đa số thơ Mới, tập thơ lấy tuổi trẻ và t́nh yêu làm đề tài chủ yếu. Nhưng giữa lúc độc giả đă quá quen thuộc với giọng nỉ non, sầu năo trong thơ Mới th́ những cung bậc t́nh yêu dễ thương ở lứa tuổi học tṛ, lứa tuổi c̣n nhiều e ấp vẩn vơ, chưa nhuốm mùi nhục cảm - có sức hấp dẫn mới lạ:

                           Đường trong làng: hoa dại với mùi rơm

Người cùng tôi đi giữa đường thơm

Ḷng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng

Đất thêu nắng, bóng tre rồi bóng phượng

Lần lượt buông màn nhẹ vướng chân lâu

... Một buổi trưa không biết ở thời nào

                           Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao

                           Có cu gáy, có bướm vàng nũa chứ

                           Mà đôi lứa đứng bên vườn t́nh tự

                                                                           (Đi giữa đường thơm)

               * Nhưng t́nh yêu ấy vẫn không bền, nhanh chóng rơi vào vô vọng. Bởi có một nỗi u hoài thường trực trong tâm hồn, bắt nguồn sâu xa từ bi kịch bế tắc, vỡ mộng. Thành ra, thơ Huy Cận vừa hồn nhiên nhất vừa buồn nhất trong các nhà thơ Mới.                                

                           Hỡi Thượng đế! Tôi cúi đầu trả lại

                           Linh hồn tôi đà một kiếp đi hoang

                           Sầu đă chín, xin người thôi hăy hái

                           Nhận tôi đi, dầu địa ngục, thiên đường

                                                               (Tŕnh bày)

               - Buồn thương, sầu năo là âm hưởng chính khiến Lửa Thiêng như bản ngậm ngùi dài. Tập thơ dằng dặc một nỗi buồn nhân thế, một nỗi đau đời. Nhà thơ đă gọi dậy cái hồn buồn của Đông Á,...đă khơi lại cái mạch sầu mấy ngh́n năm vẫn ngấm ngầm trong cơi đất này (Hoài Thanh). Nỗi buồn như kết quả của quá tŕnh lắng nghe tinh tế nhịp tuần hoàn vũ trụ và nỗi ngậm ngùi nhân gian. Đó là tấm ḷng ...tủi nắng sầu mưa. Cũng đất nước mà nặng buồn sông núi.

               - Cái buồn trong Lửa Thiêng không xuất phát từ bi kịch cá nhân nhà thơ mà gắn nhiều hơn với tâm trạng xă hội, với ư thức về thân phận nô lệ của cả một thế hệ. Trong lời tựa cho lần xuất bản đầu tiên, Xuân Diệu có nhận xét: Chàng than nỗi tháng ngày vùn vụt, bảo rằng hoa xuân không đậu, đời thoảng mùi ôi, trong khi ḿnh chưa sống hết tuổi xuân, đang độ trẻ măng của đời người! Cái tiếc sớm, cái thương ngừa áy chẳng qua là sự trá h́nh của ḷng ham đời, là cái tật dĩ nhiên của kẻ yêu sự sống.

               - Triền miên trong buồn thương nhưng Huy Cận không mất hút vào cơi siêu h́nh hay chán chường, tuyệt vọng- như không ít nhà thơ Mới. Nhà thơ vẫn tha thiết, chân thành hướng về phần thiên lương cao đẹp của cuộc đời; cảm nghe được hồn thiêng đất nước, hương vị nồng đượm của quê hương và nhựa sống tiềm tàng trong nhành cây ngọn cỏ:

                           Luống đất thơm hương mùa mới dậy

                           Bên đường chân rộn bước trai tơ

                           Cành xanh cành đẹp xui tay với

                           Sông mát tràn xuân nưóc đậm bờ

                                                                                       (Xuân)

               Lửa Thiêng được viết bằng một nghệ thuật vững vàng, độc đáo. Âm hưởng chủ đạo: nhẹ nhàng, thâm trầm, hướng vào nội tâm. Lời thơ, ư thơ tự nhiên, không cầu kỳ rắc rối. Cảnh sắc ít đường nét, giản ước, thanh thoát; tạo được ấn tượng  về một không gian bàng bạc, xa vắng, đậm đà phong vị Đường thi (Tràng giang, Buồn đêm mưa). Ngoài những thể thơ Mới khá phổ biến, Huy Cận đặc biệt thành công ở thể lục bát truyền thống. Với âm hưởng phong phú, h́nh ảnh mới mẻ, nhà thơ đă góp phần khẳng định khả năng biểu hiện tinh tế của thể thơ dân tộc này (Ngậm ngùi, Buồn đêm mưa, Thuyền đi, Trông lên, Chiều xưa,...).

   Những bài thơ tiêu biểu: Tràng giang, Buồn đêm mưa, Ngậm ngùi, Vạn lư t́nh, Đi giữa đường thơm, T́nh tự, Thuyền đi, Chiều xưa, Đẹp xưa, Tŕnh bày, Mai sau.       

                 b. Từ sau Lửa Thiêng:

               - Trong bối cảnh xă hội ngày càng đen tối, thơ Mới dần đi vào ngơ cụt. Mỗi nhà thơ loay hoay t́m lối thoát cho riêng ḿnh. Huy Cận thoát ly vào vũ trụ và thiên nhiên. Ông hoàn chỉnh cả một hệ thống triết lư ngợi ca niềm vui siêu thoát ấy trong tập văn xuôi Kinh cầu tự, năm 1942. Nhà thơ kêu gọi mọi người trở về ḥa nhập vào tạo vật, t́m nguồn vui từ thiên nhiên vũ trụ: Có lẽ tạo vật đau thương, đất trời vắng lạnh v́ nỗi ḷng ta xa cách tạo vật đó thôi. Ta hăy trở về, ta hăy nhập cuộc, có nhịp sống đưa nâng, có ḍng đời xô đẩy, cái vui lớn, cái vui trọng đại dâng sóng tràn khắp cơi đời.

               - Triết lư ấy được thể hiện đầy đủ, cụ thể trong Vũ trụ ca - tập thơ viết năm 1942, chưa in thành sách. Thoát vào vũ trụ, hồn thơ Huy Cận - với những cảm xúc mới lạ - trở nên khoáng đạt, mạnh mẽ hơn. Nhà thơ say sưa với cái vô cùng của trời đất, trăng sao. Nhiều tứ thơ hay, nhiều h́nh ảnh rực rỡ xuất hiện:

                           + Trời thắm duyên rằm vừng nhạc mở

                           Chuông sao rung nhớ, tiếng vàng bay

                           Lượng vui muôn kiếp cân đầu sóng

                           Biển rủ rê  ḷng nhập cuộc say

                                                                           (Lượng vui)

                           + Trời xanh ran lá biếc

                           Biển chóa ngập buồm vàng

                           Gió thổi miền bất diệt

                           Mây tạnh đất hồng hoang

                                                                           (Trời, Biển, Hoa, Hương)                 

   Huy Cận như gặp lại niềm vui thuở trước, lại hân hoan, hồ hởi và rạo rực những khát khao của tuổi trẻ:

                           Ta vận tấm xuân đi hớn hở

                           Tâm tư ngào ngạt hiến dâng đời

                           Thân cũng hát lừng cao nhịp lửa

                           Hoa thiên thu hẹn nở cùng môi.                    (Áo xuân)

               - Nhưng một điều rất dễ nhận ra: cái vui trong Vũ trụ ca là vui gượng, cố vui nên không trọn vẹn, vẫn mang vẻ chông chênh, vô vọng. Cho nên đôi khi để đạt ư đồ nghệ thuật, tác giả rơi vào cường điệu, cầu kỳ; h́nh ảnh đậm màu sắc tượng trưng. T́nh th́ mới nhưng ư tứ dễ đơn điệu, cũ ṃn. Điều này là tất nhiên, bởi dù có trốn tận đâu vẫn không chạy khỏi chính ḿnh. Chính cái Tôi giàu cảm xúc, nặng t́nh với đất nước, dân tộc đă không để yên nhà thơ trong sự huyễn hoặc:

                           Về đâu những bước thời gian đă

                           In dấu mong manh trên cánh đào?

                           Về đâu hạt bụi vàng thao thức

                           Theo bánh xe quay ṿng khát khao?

               Về đâu ?... Câu hỏi cứ lặp đi lặp lại như một ám ảnh, day dứt khôn nguôi về ngày mai, về ư nghĩa của kiếp người.

Những bài thơ tiêu biểu: Xuân hành, Lượng vui, Áo xuân, Triều nhạc,...             

*** Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của thơ Mới. Thơ ông là tiếng ḷng thiết tha gắn bó với quê hương đất nước, khao khát được hiến dâng tuổi trẻ và tài năng; nhưng khi vấp phải thực trạng xă hội, những kỳ vọng ấy đă tan vỡ hoàn toàn. Như nhiều nhà thơ lăng mạn khác, Huy Cận giai đoạn này ít thơ vui hơn thơ buồn. Luôn có một nỗi sầu thường trực trên từng trang thơ của ông, nhưng đó là biểu hiện sinh động của bi kịch tâm trạng; đáng được cảm thông, trân trọng. 

2- Thơ Huy Cận sau Cách mạng tháng Tám:

TOP

   Sau khi Lửa Thiêng ra đời một năm, Huy Cận t́m đến với Cách mạng (hoạt động trong mặt trận Việt Minh). Như vậy, ánh sáng của lư tưởng Cộng sản đă manh nha trong hồn thơ mang mang thiên cổ sầu ấy từ khá lâu trước 1945. Và sự đổi đời tháng Tám có ư nghĩa như một bước ngoặt lịch sử, đưa trang thơ Huy Cận vượt khỏi những ám ảnh, những giới hạn chật hẹp do mặc cảm nặng nề về thân phận nô lệ tạo nên. Như đa số các nhà thơ Mới, Huy Cận rưng rưng chân thành trở về ḥa nhập với cuộc sống.

   Quan điểm nghệ thuật, lập trường tư tưởng đă thay đổi căn bản; nhưng như thế vẫn chưa thể có thơ hay. Cần một khoảng thời gian nhất định - tùy t́nh trạng tâm tưởng của mỗi nghệ sĩ - để những rung động ban đầu được nung, được nén lại thành cảm xúc nghệ thuật. Mặt khác, mọi sự thay đổi đều cần được thử thách qua thực tế. Thơ Huy Cận sau 1945 thể hiện rơ quá tŕnh đấu tranh tự khẳng định sự góp mặt của một nhà thơ lớp trước, vào cuộc sống mới. Mười ba năm sau, 1958, mới có một tập thơ (Trời mỗi ngày lại sáng), rơ ràng hành tŕnh từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui ở Huy Cận không giản đơn chút nào.

   a. Thơ Huy Cận từ 1945 đến kháng chiến chống Mỹ:

   Khoảng thời gian này, có 04 tập thơ tiêu biểu, ghi nhận quá tŕnh chuyển biến và sự hồi sinh mănh liệt của hồn thơ Huy Cận: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Hai bàn tay em (1967).

   - Phải mất hơn mười năm trăn trở, phấn đấu không ngừng tự vượt lên thoát khỏi ám ảnh cũ, hồn thơ Huy Cận mới hồi sinh và khởi sắc. Vốn quen quanh quẩn sống bằng ảo vọng, thích phiêu diêu vô định lánh đời trong vũ trụ, giờ bừng mắt giữa cuộc đời thực; vui đấy, nhưng không khỏi ngỡ ngàng, mặc cảm. Ngập ngừng, dè dặt khoác ba lô lên vai, Huy Cận đi vào kháng chiến. Hồn thơ ông thắm hồng da thịt trở lại cùng với sự hồi sinh vĩ đại của cả dân tộc.

   - Thế giới thơ Huy Cận trước kia hầu như thiếu hơi người, vắng những sắc màu âm thanh b́nh thường của sự sống, nên hoang sơ cô tịch. Chỉ c̣n một ḿnh nhà thơ rợn ngợp giữa không gian, ch́m khuất trong nỗi mang mang thiên cổ sầu. Giờ đây, nhà thơ mở rộng tâm hồn cho cuộc sống ùa vào. Vẫn c̣n đó năng lực cảm nghe tinh tế mạch đời bền bỉ, vẫn không nguôi niềm khắc khoải không gian, nhưng giữa con người với thiên nhiên đă có mối giao ḥa kỳ diệu:

                           Giọt mưa cũ ố vàng thơ phú

                           Triều mưa nay đoàn tụ lúa xanh

                           Cũng là thức giữa năm canh

                           Mưa xưa lạnh lẽo, an lành mưa nay

                                                                           (Mưa mười năm)

   - Huy Cận phát huy sở trường bằng việc phát hiện chất thơ biểu hiện tinh vi, phong phú  trong đời thường. Dường như mọi biểu hiện của cuộc sống b́nh dị - qua cái nh́n của nhà thơ - đều nên nhạc, nên thơ. Ông say sưa ngợi ca một khu nhà mới, đoàn thuyền đánh cá, những ngày hội mùa xuân,...Con người mới trong lao động xây dựng đất nước thành h́nh tượng thật khỏe khoắn, lạc quan, chan chứa nghĩa t́nh:

                           Anh tặng em buổi sáng hôm nay

                           Có hoa sen nở hồ Tây trắng hồng

                           Tặng em trời mát như sông

                           Trong veo chảy giữa đôi ḍng cây xanh

                                                               (Buổi sáng hôm nay)

   - Chính nhờ hút nhụy từ đời sống xanh tươi, hồn thơ Huy Cận có được nguồn sinh lực mới. Cuộc sống mới giúp nhà thơ nhận ra chân giá trị của lao động và vẻ đẹp chân chính của người lao động. Thiên nhiên tạo vật không c̣n đối lập với con người mà cùng con người hợp thành bức hoành tráng chói chang, rạng rỡ (Đoàn thuyền đánh cá).

   * Thời kỳ này đánh dấu một bước chuyển biến mới của hồn thơ Huy Cận. Mỗi tập thơ là một nỗ lực lớn, tự vượt lên để khẳng định sự góp mặt vào cuộc đời mới. Với ư nghĩa đó, thơ Huy Cận c̣n củng cố nhận thức về cuộc đổi đời lịch sử và bồi đắp những t́nh cảm trong sáng, lành mạnh.  

   b. Thơ Huy Cận trong kháng chiến chống Mỹ:

   Trong kháng chiến chống Mỹ, Huy Cận đă góp tiếng thơ ḿnh vào việc phản ánh những sự kiện, những vấn đề trọng đại của chiến tranh. Bằng nhiều chuyến đi thực tế vào tuyến lửa, nhà thơ kịp thời chuyển biến cách nh́n, cách nghĩ cho phù hợp với giai đoạn cách mạng mới.  Liên tiếp ra đời nhiều tập thơ có giá trị: Những năm sáu mươi (1968); Chiến trường gần đến chiến trường xa (1973); Những người mẹ, những người vợ (1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975).

   - Trong khuynh hướng chung của thơ chống Mỹ, thơ Huy Cận tăng cường tính thời sự và tập trung vào việc khẳng định, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng miền Nam. Từ thế đứng hùng vĩ và tầm vóc lớn lao của dân tộc trên tuyến đầu chống Mỹ, Huy Cận càng có điều kiện để suy ngẫm về quá khứ và hướng về tương lai; từ truyền thống dân tộc đến quan hệ với thế giới, với thời đại. Giữa ngất trời đạn bom, cái nh́n của nhà thơ vẫn hướng về öphía khái quát để phát hiện ra những tầng sâu văn hóa truyền thống của đời sống con người Việt Nam:

                                       Sống vững chải bốn ngàn năm sừng sững

                                       Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa

                                       Trong và thật: sáng hai bờ suy tưởng

                                       Sống hiên ngang mà nhân ái chan ḥa

                                                               (Đi trên mảnh đất này)

   - Tính chính luận, suy tưởng thể hiện rơ trong nhiều bài thơ. Xuất phát từ những sự kiện chính trị-xă hội hay những chi tiết cụ thể của đời sống, nhà thơ mở rộng liên tưởng để khám phá bề sâu triết lư của vấn đề.

   Trước ngă ba Đồng Lộc - một trọng điểm trên tuyến đường vào Nam, nơi ghi dấu sự hy sinh dũng liệt của 10 cô gái phá bom - Huy Cận nghĩ đến ư nghĩa quyết định của những ngă ba trong đời mỗi người, mỗi dân tộc:

                                       Qua trái tim ngă ba Đồng Lộc

                                       Máu qua tim máu lọc

                                       Xe vượt ngă ba xe xốc tới miền Nam

                                                            ...Những ngă ba Việt Nam

                                       Trên đường dài kẻ địch c̣n găm

                                       Nhiều bom nổ chậm

                                       ...Đường sẽ thông xe đi về Cách mạng

                                                               (Ngă ba Đồng Lộc)

   Bằng những h́nh ảnh giản dị, cụ thể, Huy Cận tập trung ngợi ca sức quật khởi, sức sống bất diệt và phong thái ung dung của con người Việt Nam. Nhà thơ đi đến một khái quát có ư nghĩa nhân văn sâu sắc về cuộc kháng chiến chống Mỹ: đây là cuộc chiến đấu và chiến thắng của nhân nghĩa trước bạo tàn phi nghĩa, của sự sống trước sự hủy diệt. Nhận thức này thấm sâu trong cảm xúc và h́nh tượng thơ, tạo nên tâm thế b́nh tỉnh, tự tin của cả một dân tộc anh hùng trước những thử thách ác liệt. Trong Giờ trưa, cuộc sống vẫn êm đềm diễn ra với tiếng chim hót, nhện giăng tơ, gà cục tác,... bất kể sự lồng lộn của con ma Mỹ

                                       Buổi trưa ấm lại bốn bề tiếp tục

                                       Con gà mái lại đâu đây cục tác

                                       Báo với đời thêm một trứng tṛn to

                                       Anh bộ đội ngoái đồng ngồi trên mâm pháo bóng tṛn vo

   Chân lư góp thêm một cách nghĩ, thật giản dị, nhưng đầy triết lư về cuộc kháng chiến trường kỳ

                                       Đủ tháng năm ta sẽ đánh giặc xong

                                       Trái chín cây  đâu phải chín nóng ḷng

   - Quê hương đất nước, nông thôn Việt Nam luôn là đề tài quen thuộc, không thể thiếu trong thơ Huy Cận. Thời chống Mỹ, đó là những làng quê yên ả với nhịp sống tưởng như b́nh lặng nhưng luôn có nhiều xao động tinh tế. Vẻ đẹp truyền thống đang có nhiều đổi thay cho phù hợp với thời đại mới

                                       Gà gáy trong mưa vẫn tiếng vang

                                       Giọng kim, giọng thổ rộn vang đồng

                                       Được mùa giống mới, gà no bữa

                                       Tiếng gáy tṛn như lúa nặng bông

                                                   (Gà gáy trên cánh đồng Ba V́ được mùa)

***Hai bàn tay em (tập thơ cho thiếu nhi):

   Huy Cận rất yêu mến và quan tâm đến trẻ con. Nhà thơ dành hẳn một tập thơ cho các em. "Hai bàn tay em" khai thác đề tài từ những sự vật, khung cảnh gần gũi với cuộc sống của trẻ con (con cóc, con ve, con dế, cái chong chóng, buổi trưa hè,...); những khía cạnh t́nh cảm gia đ́nh thân thuộc (cha mẹ-con cái, anh chị-em, ông bà-cháu); những câu chuyện lịch sử, những tấm gương thiếu niên anh hùng.

   Tập thơ như những bài học nhằm giáo dục các em ḷng yêu quê hương đất nước, yêu con người, yêu lao động, tinh thần đoàn kết,...Không là những lời giáo huấn khô khan, tiếng thơ Huy Cận rất hồn nhiên, ngộ nghĩnh nên dễ đi vào tâm trí trẻ thơ:

               -            Buổi trưa lim dim

                           Ngh́n con mắt lá

                           Bóng cũng nằm im

                           Trong vườn êm ả

               -            Bé gọi con dế

                           Quen nấp đầu hồi

                           Dế kêu the thé

                           Giật ḿnh bưởi rơi

*Từ 1975 đến nay, Huy Cận vẫn sáng tác đều đặn. Gác lại chuyện chiến tranh, tâm hồn nhà thơ trở về với mạch cảm xúc quen thuộc của cuộc đời hàng ngày quanh ḿnh; lại say mê thiên nhiên, vũ trụ và nghiền ngẫm, suy tư về sự sống con người. Những tập thơ tiêu biểu: Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984), Chim làm ra gió (1989), Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ (1997).

   Thơ Huy Cận tiếp tục phát triển theo hướng suy tưởng, hướng nội hơn; có khuynh hướng chiêm nghiệm về ư nghĩa nhân sinh cao cả từ những biểu hiện b́nh dị của đời thường:

                           Yêu măi, yêu rồi, đâu hết yêu

                           Cuộc đời như miếng đất ph́ nhiêu

                           Trồng bao nhiêu vụ c̣n tươi tốt

                           Hạt gặt xong rồi, hạt lại gieo

                                                   (Hạt lại gieo)

III. PHONG CÁCH THƠ HUY CẬN

   1. Huy Cận có năng lực cảm nhận cuộc sống thật đặc biệt, có thể nghe được từ những biểu hiện tinh vi của tạo vật đến những biến đổi lớn lao trong vũ trụ vô cùng vô tận. Đây là nhà thơ có "cái nghiêng tai kỳ diệu"(Xuân Diệu). Huy Cận cảm nhận được trọn vẹn từ những mùi vị dân dă của đất đai đồng ruộng đến lời ru của gió, nhịp thở của biển, để rồi nói lên linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên bằng giai điệu trong trẻo, dễ rung động ḷng người.

   + Trước 1945, tuy vật vă với nỗi sầu đau nhưng thiên nhiên trong thơ Huy Cận vẫn thấm thía t́nh người, t́nh đời (Ngậm ngùi, Tràng giang, Buồn đêm mưa):

                           -            Đêm mưa làm nhớ không gian

                                       Ḷng run thêm lạnh nỗi hàn bao la

                                       Tai nương nước giọt mái nhà

                                       Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn

                           -            Nắng chia nửa băi, chiều rồi

                                       Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu

                                       Sợi buồn con nhện giăng mau

                                       Em ơi hăy ngủ, anh hầu quạt đây

   Từ sau Cách mạng tháng Tám, tiếng thơ trở nên đằm thắm, sâu nặng nghĩa t́nh; cảnh sắc thiên nhiên ấm áp, xôn xao hơn nhiều:

                                       Chiều thu trong, lá trúc vờn đẹp quá

                                       Lá mía xanh nhung quạt vào mái rạ

                                       Tiếng lao xao như ai ngả nón chào

                                       Hoa mướp cuối mùa vàng rực như sao

                                       Giếng trong lẻo, trời xanh in thăm thẳm

                                                               (Chiều thu quê hương)

   + Năng lực ấy không chỉ có được bằng sự tinh nhạy của các giác quan (rèn dũa trong những năm tháng tuổi thơ, sống ở quê hương) mà c̣n xuất phát từ chiều sâu tâm hồn nhà thơ - một tâm hồn luôn rộng mở để đón nhận đủ đầy âm vang mọi phía đời sống.

   + Có thể nói: thiên nhiên, quê hương đất nước là nguồn cảm hứng vô tận trong thơ Huy Cận. Nếu ở Xuân Diệu, thiên nhiên thường sực nức hương vị và ngôn ngữ ái t́nh th́ ở Huy Cận, núi sông cây cỏ bao giờ cũng lặng lẽ, b́nh thản như tâm hồn tác giả. Không thể h́nh dung được thơ Huy Cận sẽ ra sao nếu thiếu đi nắng vàng, trời xanh, gió biếc, biển rộng, sông dài,... Nhưng thơ ấy không thuộc loại thơ điền viên, bởi trước sau tác giả vẫn luôn nặng ḷng đời, luôn có ư thức phát hiện rồi khẳng định sự hài ḥa giữa con người với tự nhiên; để mở rộng biên giới những xúc cảm, nâng tầm nhận thức về sự tồn tại của con người. "Thơ viết về đất nước, thiên nhiên và quê hương là một điểm mạnh của Huy Cận. Dường như ở đây nhà thơ đă toát ra một mảng hương sắc sâu xa, cao đẹp nhất của tâm hồn ḿnh" (Xuân Diệu).

   2. Hồn thơ Huy Cận luôn vận động giữa nhiều đối cực: vũ trụ-cuộc đời, sự sống-cái chết, nỗi buồn-niềm vui, hiện thực-lăng mạn.

   + Vũ trụ và cuộc đời luôn song hành tồn tại, thành hai cực hấp dẫn hồn thơ Huy Cận. Thơ ông ngày càng gắn bó với đời, nhưng cảm hứng về cuộc đời không tách rời cảm hứng về vũ trụ. Vươn lên t́m hiểu những bí ẩn của không gian vô cùng cũng đồng thời nh́n về trái đất để hiều hơn chính ḿnh. Khát vọng ấy mang bản chất triết lư, nhân văn cao cả. Bởi đích đến cuối cùng của nó không phải cơi siêu h́nh nào mà chính là mặt đất, cơi sống của con người.

   + Huy Cận viết khá nhiều về cái chết, về sự tương phản nghiệt ngă giữa hữu hạn đời người với cái vô hạn của tạo hóa. Sự sống là bất tử, vũ trụ là vô cùng nhưng con người không thể tránh được cái chết. Nghĩ đến lúc từ giă cơi đời, nhà thơ không khỏi xót xa nuối tiếc. Nhưng đó không là biểu hiện của thái độ ham sống sợ chết tầm thường mà là của khát vọng được cống hiến hết ḿnh, được tái sinh:

                                       Rồi một ngày kia giă cơi đời

                                       Xin cho gieo hạt hết trong tay

                                       Chứ tay c̣n nắm chưa vơi hạt

                                       Mà phải ra về cực lắm thay

                                                               (Hạt lại gieo)

                                       Đời thân yêu, một ngày mai ta chết

                                       Cho ta đi khi hè chói chang trưa

                                       Để ta hiểu giă từ chưa phải hết

                                       Nằm đất quen như hạt chín sang mùa

                                                               (Say mùa hè)

   + Nỗi buồn và niềm vui ở Huy Cận đều được đẩy đến cực đoan: lúc buồn-buồn đến ảo năo, thê thiết; khi vui-vui tràn trề, dào dạt. Hành tŕnh tâm tưởng của Huy Cận đi từ nỗi buồn sâu đến niềm vui lớn. Cảm nhận, thể hiện rơ hai đối cực này chứng tỏ nhà thơ rất thiết tha với cuộc đời và ư thức đầy đủ về thân phận con người. Khi nỗi buồn được ư thức, hóa thành nỗi đau đời; khi niềm vui được ư thức, sẽ thành hạnh phúc, tin yêu.

   + Cảm hứng nghệ thuật của Huy Cận, trước 1945, có sự phân cực khá rơ giữa hiện thực và lăng mạn. Từ sau 1945, hai đối cực ấy dần dần đạt đến độ ḥa hợp cần thiết, trên cơ sở sự thống nhất giữa lư tưởng và hiện thực trong cuộc sống mới.     

   3. Huy Cận là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn tầm cỡ thế giới. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Suối nguồn thơ ca truyền thống đă rót vào tâm hồn Huy Cận những giai điệu du dương, khiến cho tiếng thơ - những khi đạt đến độ thuần thục - rất dễ đi vào ḷng người. Thể thơ lục bát truyền thống, thể thơ năm chữ của dân ca Nghệ Tĩnh - trong tay Huy Cận - vừa mộc mạc chân t́nh vừa lắng đọng, hàm súc; sắc thái biểu hiện được phát huy rơ rệt. Chất suy nghĩ bàng bạc khắp các tứ thơ. H́nh ảnh thơ Huy Cận thường không sắc sảo, gây ấn tượng mạnh mà thâm trầm, khơi gợi; như len nhẹ, như ngấm sâu vào tâm hồn và trí tuệ người đọc. Những bức tranh thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường rất ít đường nét, giản ước theo bút pháp cổ điển, gợi nhiều hơn tả. Do đó, có thể nói: ấn tượng không gian có được - trước hết - nhờ phong vị Đường thi. 

IV. KẾT LUẬN CHUNG:

   Con đường thơ của Huy Cận khá tiêu biểu cho lớp nhà thơ thuộc thế hệ thứ nhất, văn học Việt Nam hiện đại. Từ một thành viên xuất sắc của phong trào thơ Mới, Huy Cận đến với Cách mạng, t́m thấy mục đích, lư tưởng chân chính cho tiếng nói nghệ thuật của ḿnh và trở thành một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại.

   Với vốn văn hóa sâu rộng, năng lực xúc cảm, suy nghĩ phong phú và quan điểm nghệ thuật rơ ràng, Huy Cận đă góp vào thi đàn một tiếng thơ có hương sắc riêng, làm rạng rỡ diện mạo tâm hồn dân tộc.


Previous Index Next Home