Chương 3
NGUYỄN
TUÂN
NGUYỄN
TUÂN
(1910
- 1987)
----------------------
Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị,
v́
văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để
người nông nổi thưởng thức.
(Vũ Ngọc Phan)
Cho đến nay và măi nhiều năm về sau
nữa, chắc chắn không ai nghi ngờ vị trí hàng
đầu trong làng văn Việt Nam hiện đại
của Nguyễn Tuân. "Ông là một
trong mấy nhà nhà văn lớn mở đường,
đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ
XX" (Nguyễn Đ́nh Thi). Nói đến Nguyễn Tuân là
nói đến một giá trị hiển nhiên, gợi
nhắc một vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ
dân tộc. Sáng tác của ông tồn tại vừa như
những giá trị thẩm mỹ độc lập
vừa gợi ư, kích thích t́m ṭi, sáng tạo nên các giá
trị mới.
I.
TIỂU SỬ - CON NGƯỜI - QUAN NIỆM NGHỆ
THUẬT
1) Nguyễn Tuân sinh ngày 10-7-1910 tại phố Hàng
Bạc, Hà Nội. Gia đ́nh có truyền thống nho
học. Nhưng lúc này nho học đă thất thế, nhường
chỗ cho Tây học. Cả một thế hệ vốn
gắn bó với cửa Khổng sân Tŕnh bỗng dưng
trở nên lỗi thời trước xă hội giao
thời Tây - Tàu nhố nhăng ; sinh ra tư tưởng
bất đắc chí (trong đó có cụ Tú Hải Văn,
thân sinh của Nguyễn Tuân). Bối cảnh xă hội, không
khí gia đ́nh đặc biệt ấy đă ghi lại
dấu ấn sâu sắc trong cá tính, tư tưởng cũng
như phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn
Tuân. Là một trí thức giàu tinh thần dân tộc,
Nguyễn Tuân đă phải trải qua những năm tháng
vô cùng khổ sở, có lúc bế tắc, tuyệt
vọng.
- Năm 1929, bị đuổi học và không
được vào làm việc ở bất cứ công
sở nào trên toàn cơi Đông Dương (v́ tham gia băi khóa
chống giáo viên Pháp nói xấu người Việt Nam,
tại trường trung học Nam Định). Cùng một nhóm
bạn, vượt biên giới sang Lào; bị bắt
ở Thái Lan, đưa về giam ở Thanh Hóa. Hơn
một năm sau, ra tù. Đi trái phép vào Sài G̣n, đến
Vinh th́ bị bắt và bị quản thúc ở Thanh Hóa.
Kể từ đây, Nguyễn Tuân lâm vào t́nh trạng
khủng hoảng tinh thần sâu sắc. Ông lao vào con
đường ăn chơi trụy lạc, thành kẻ
"đại bất đắc chí", như một người
"hư hỏng hoàn toàn".
- Năm 1938, tham gia vào đoàn làm phim "Cánh đồng
ma", quay tại Hồng Kông.
- Từ 1942 đến 1945, ngày càng bế tắc, suy
sụp ; đă có ư định tự sát.
* Cách mạng tháng Tám đă cứu sống cuộc
đời cũng như trang viết Nguyễn Tuân. Ông hân
hoan chào đón cuộc đổi đời lịch
sử, tự "lột xác" và chân thành đứng vào
hàng ngũ nhà văn Cách mạng.
- Năm 1950, vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Từ 1948-1958, là tổng thư kư Hội Văn nghệ
Việt Nam.
- Luôn hăng hái tham gia vào hai cuộc kháng chiến.
Tiếp tục đi nhiều, có mặt ở tuyến
lửa ác liệt, dùng văn chương ngợi ca đất
nước và cùng nhân dân đánh giặc.
* Nguyễn Tuân mất ngày 28-7-1987 tại Hà Nội.
2) Nguyễn Tuân là một
trí thức dân tộc rất mực tài hoa, uyên bác.
Ông am tường cả Hán học lẫn Tây học,
đặc biệt, có ḷng say mê thiết tha đối
với tiếng Việt. Rất mực đề cao và chú
tâm ǵn giữ nhân cách nghệ sĩ, nên Nguyễn Tuân căm
ghét thói xấu xa đê tiện, rởm đời, vô văn
hóa.
Đọc văn ông, người đọc không
chỉ có khoái cảm thẩm mỹ từ nghệ
thuật ngôn từ mà c̣n được bồi dưỡng
thêm tri thức về nhạc, họa, điêu khắc,
kiến trúc, lịch sử, địa lư, điện
ảnh,... Thực tế ấy chứng tỏ Nguyễn Tuân
là một tài năng phong phú, có năng lực ở
nhiều lĩnh vực nghệ thuật.
3) Đời viết văn hơn nửa thế kỷ
của Nguyễn Tuân là một quá tŕnh lao động
nghệ thuật thật sự nghiêm túc. Về sau, khi
đă ở đỉnh cao nghề nghiệp, ông vẫn không
bao giờ tỏ ra lơi lỏng, hời hợt ; mà ngược
lại, luôn nghiêm khắc với chính ḿnh. Đây là một
nhà văn "suốt đời đi t́m cái Đẹp, cái
Thật" (Nguyễn Đ́nh Thi), tự nhận ḿnh là người
"sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai
chữ viết hoa".
- Trước Cách mạng tháng Tám, trong bối
cảnh nước mất, xă hội đảo điên
"lộn tùng phèo" mọi thứ quan niệm, mọi
giá trị, Nguyễn Tuân đă đứng hẳn về
phía dân tộc và truyền thống dũng cảm
chống lại sức công phá của lối sống xu
thời. Sáng tác của ông thời kỳ này dồn
sức chủ yếu vào việc phục hiện lại các
giá trị văn hóa thuộc lĩnh vực tinh thần và
xă hội. Trên trang viết Nguyễn Tuân, những
"vẻ đẹp xưa" chợt sống dậy
trong niềm xót xa tiếc nuối khôn nguôi. Dù điều
kiện bấy giờ không cho phép nhà văn bộc lộ
trực tiếp tâm sự u hoài đối với dân,
với nước, người đọc vẫn cảm
nhận được một tấm ḷng chân thành và
rất mực thủy chung. Ông đă ghé vai vào chống
chỏi, hàn gắn, sắp xếp lại với kỳ
vọng ǵn giữ những giá trị thiêng liêng nhất
vốn hun đúc nên quốc hồn, quốc túy Việt
Nam. Nếu có thể ví trang sách như tấm lá chắn
hữu hiệu th́ nhà văn Nguyễn Tuân - giai đoạn
trước 1945 - chính là người cảm tử quân
đang chiến đấu với cái Ác, tử thủ
ở thành tŕ Chân - Thiện - Mỹ.
- Từ sau 1945, Nguyễn Tuân viết đều đặn,
càng tỏ ra sâu sắc trong tư tưởng nghệ
thuật. Nhà văn có dịp đi nhiều, vừa đi
vừa mở ḷng đón nhận bao nhiêu thanh sắc
của cuộc sống
mới đang từng giây từng phút sinh sôi. Nếu trước
kia chỉ có thể bộc lộ tâm sự yêu nước
thương dân một cách kín đáo, th́ giờ đây
con người tài hoa uyên bác ấy như được
tháo cũi sổ lồng, phát huy hết mọi sở trường,
cất cao lời ngợi ca đất nước và con người
Việt Nam trong thời đại mới.
Nếu trước Cách mạng tháng Tám, quan niệm
về cái Đẹp của Nguyễn Tuân đậm màu
sắc chủ quan, "không bà con ǵ với luân lư
thời đại" th́ giờ đây, đă có sự
hài ḥa cần thiết. Bởi cái Đẹp giờ hiện
hữu trong thực tại, là đời sống muôn màu
của Nhân Dân ; như có thể cầm lên tay mà nâng niu
ngắm nghía. Hoài cổ không c̣n mang ư nghĩa níu kéo dĩ
văng mà được nâng lên thành ư thức về sự
góp mặt của dĩ văng ở hiện tại.
* Tác phẩm tiêu biểu :
- Trước 1945 : Một chuyến đi (1938), Vang bóng
một thời (1939), Ngọn đèn dầu
lạc (1939), Thiếu quê hương (1940), Tàn đèn
dầu lạc (1941), Chiếc lư đồng mắt cua
(1941), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc Chị Hoài (1943),
Nguyễn (1945).
- Sau 1945 : Chùa Đàn (1946), Đường vui (1949), T́nh
chiến dịch (1950), Thắng
càn (1963), Tùy bút kháng chiến và ḥa b́nh (Tập I/1955,
tập II/1956), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ
giỏi (1972), Kư (1976), Hương vị và cảnh sắc
đất nước (1978), Tuyển tập Nguyễn Tuân
(1994).
1) Nguyễn Tuân có một khoảng thời gian
thử bút ở một số thể loại trước
khi dừng lại và tỏa sáng với tùy bút.
- Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hán
học, sáng tác của ông, cho đến trước năm
1937, hầu hết được viết theo bút pháp
cổ điển. Những sáng tác buổi đầu
ấy chưa gây được tiếng vang. Tuy nhiên, có
thể bắt gặp ở một số trang viết tiêu
biểu như "Giang hồ hành" (thơ), "Vườn
xuân lan tạ chủ" (truyện ngắn) những tín
hiệu của một phong cách nghệ thuật lớn.
Đó là tinh thần hoài cựu, luôn chăm chút nhặt
nhạnh những vẻ đẹp xưa dù đă tàn
tạ, cuối mùa ; là hệ thống nhân vật tài hoa tài
tử, nhuốm chút ngông nghênh kiêu bạc ; là lối văn
cầu kỳ trúc trắc mà uyên bác hơn người.
- Đến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên
các báo với những truyện ngắn hiện thực trào
phúng, ở đó thường vỡ ra những tràng cười
châm biếm thoải mái, đậm đà phong vị dân
gian (Đánh mất ví, Một vụ bắt rượu, Mười
năm trời mới gặp
lại cố nhân). Tuy nhiên, do trào lưu hiện thực
phê phán lúc bấy giờ đă phát triển rất
mạnh với nhiều tên tuổi lớn như Ngô
Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam Cao,... cho
nên thật không dễ dàng đối với Nguyễn Tuân
trong việc t́m một vị trí có hạng trên văn
đàn. Vả chăng, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn
Tuân sớm nhận ra rằng thể loại truyện
ngắn vẫn chưa phù hợp với sở trường
của ḿnh.
- Nguyễn Tuân chỉ thực sự công nhận như
một phong cách văn chương độc đáo
kể từ tùy bút - du kư "Một chuyến đi",
năm 1938. Tác phẩm là tập hợp những trang
viết từ chuyến du lịch không mất tiền sang
Hương Cảng để tham gia thực hiện bộ
phim "Cánh đồng ma" - một trong những phim
đầu tiên của Việt Nam. Nét đặc sắc
nhất ở "Một chuyến đi" chính là
giọng điệu. Có thể nói đến đây
Nguyễn Tuân mới t́m được cách thể
hiện giọng điệu riêng, một giọng điệu
hết sức phóng túng, linh hoạt đến kỳ
ảo : "Khi th́ trang nghiêm cổ kính, khi th́ đùa
cợt bông phèng, khi th́ thánh thót
trầm bổng, khi th́ xô bồ bừa băi như là ném ra
trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy,
nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa"
(Nguyễn Đăng Mạnh). Nhân vật chính trong tác
phẩm là cái "tôi" ngông nghênh kiêu bạc của nhà
văn. Một cái "tôi" sau quá nhiều đắng
cay tủi cực đă hầu như hoài nghi tất
cả, chỉ c̣n tin ở cái vốn t́nh cảm, ư nghĩ,
cảm xúc sắc sảo và tinh tế của ḿnh tích lũy
được trên bước đường xê dịch.
- Một năm sau, 1939, bằng tập truyện
"Vang bóng một thời" Nguyễn Tuân đă vươn
đến đỉnh cao của sáng tạo nghệ
thuật. Tác phẩm gần đạt đến độ
"toàn thiện toàn
mỹ" ấy (Vũ Ngọc Phan) góp phần đưa
nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển thêm
một bước mới trên con đường hiện
đại hóa. "Vang bóng một thời" vẽ
lại những cái "đẹp xưa" của
thời phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông
Cống, ông Tú thích chơi lan chơi cúc, thích đánh
bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà trong sương
sớm với tất cả nghi lễ thành kính đến
thiêng liêng. Cũng vào thời ấy, tên đao phủ c̣n
chém người bằng đao, người ta c̣n đi
lại trên đường bằng vơng, bằng cáng ;
vừa đi vừa dềnh dàng đánh cờ bằng
miệng, ... Thời gian hầu như chưa trở thành
nỗi ám ảnh lớn đối với con người,
bởi nó c̣n được đo bằng mùa, bằng
tiết. Nhưng những vẻ đẹp có màu sắc
truyền thống ấy đang có nguy cơ bị mai
một. Đau đớn nhận ra điều đó,
Nguyễn Tuân ra sức níu giữ, gom góp và phục
chế lại bằng tất cả tấm ḷng thành kính.
"Vang bóng một
thời", v́ thế, có thể được xem như
một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa
cổ truyền của dân tộc.
- Từ sau "Vang bóng một thời" đến
năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân dần đi vào ngơ
cụt. Nếu như ở "Thiếu quê hương"
(1940), "Chiếc lư đồng mắt cua" (1941) tuy
mải mê với những lạc thú trần tục, cái
"tôi" vẫn c̣n đầy tự trọng và
giữ được ư thức về bản thân ḿnh th́
từ 1942, t́nh h́nh có khác đi. Vẫn cái "tôi"
ấy nhưng đă có vẻ mất tự tin và niềm
tin vào cuộc sống. Trong những năm đen tối này,
đời sống tinh thần của Nguyễn Tuân lâm vào
t́nh trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc.
Những trang viết thưa dần. Bên cạnh những
đề tài cũ (vẻ đẹp xưa, đời
sống trụy lạc), xuất hiện thêm các đề
tài mới hướng về thế giới của yêu
tinh, ma quỷ. Ngay tiêu đề các tác phẩm : "Xác
ngọc lam", "Đới roi", "Rượu
bệnh", "Loạn âm" cũng đủ nói lên t́nh
trạng bế tắc của ng̣i bút Nguyễn Tuân
thời kỳ này.
* Dơi theo quá tŕnh sáng tác của Nguyễn Tuân giai
đoạn trước Cách mạng tháng Tám, thật
dễ nhận ra sự thay đổi rơ rệt về tư
tưởng nghệ thuật, nhất là từ "Vang bóng
một thời" trở về sau. Điều này hoàn toàn
có thể lư giải được nếu nh́n vào quy
luật của chủ nghĩa lăng mạn : bao giờ cũng
khởi đầu thật ấn tượng bằng
việc khám phá và đề cao cái "tôi" cá nhân,
để rồi sau giây phút choáng ngợp ấy tất
cả vụt trở nên nhỏ nhoi, trống vắng và
buồn chán đến nao ḷng. Dẫu sao, những trang
viết của Nguyễn Tuân vẫn luôn được
đón nhận bằng thái độ trân trọng và thông
cảm sâu sắc; bởi độc giả nhận ra
ở đấy một tấm ḷng chân thành, cả trong
những thời điểm khắc nghiệt nhất.
2) Những năm đầu sau Cách mạng tháng Tám,
ngoài một vài tùy bút ngắn ghi lại tâm trạng
vừa hoang mang vừa đầy ắp hy vọng của
một trí thức tự "lột xác" để
dấn thân vào cuộc đời mới (Vô đề, Ngày
đầy tuổi tôi Cách Mệnh), Nguyễn Tuân c̣n có
"Chùa Đàn" - một tác phẩm được
viết khá công phu và đầy tâm huyết. "Chùa Đàn"
là truyện về một nhân vật mắc căn
bệnh cá nhân chủ nghĩa, ích kỷ đến tàn
nhẫn ; nhưng từ sau 1945, như được
uống liều thuốc cải lăo hoàn đồng, tự
cải tạo vươn lên thành con người mới,
sống chan ḥa với xung quanh. Có nhiều ư kiến đánh
giá chưa thật thống nhất đối với tác
phẩm này. Mới đọc qua, dễ có ấn tượng
về một quá tŕnh đổi thay có vẻ giản
đơn, công thức. Nhưng nếu xem xét tác phẩm
trong cả quá tŕnh sáng tác của nhà văn th́ không
thể không công nhận "Chùa Đàn" là một cố
gắng đáng trân trọng.
- Tiếp theo, hai tập tùy bút : "Đường
vui" (1949) và "T́nh chiến dịch" (1950) - ghi
nhận chuyển biến thật sự sâu sắc của
ng̣i bút Nguyễn Tuân. Đáp lời kêu gọi của Đảng,
Nguyễn Tuân hăng hái xốc ba lô lên vai dấn thân
khắp các nẻo đường chiến dịch. Cái
"tôi" giờ đây không c̣n phá phách, ngông nghênh
nữa mà rưng rưng ḥa nhập, sẻ chia với
đồng bào đồng chí. Giọng điệu văn
chương trở nên sôi nổi tin yêu, tràn ngập
một t́nh cảm chân thành đến hồn nhiên đối
với quê hương đất nước, với Cách
mạng và kháng chiến. Ngỡ như sau phút dừng chân
bên đường để định phương hướng,
Nguyễn Tuân lại tiếp tục bôn ba trên hành tŕnh
đi t́m cái Đẹp, cái Thật. Có điều khác là
những giá trị ấy giờ đây không phải
mất công t́m kiếm ở cơi quá văng hoặc vô h́nh nào
mà hiện hữu ngay trong cuộc đời thực đang
từng giây từng phút sinh sôi cuồn cuộn trước
mắt. Nguyễn Tuân như chuếnh choáng say sưa trước
niềm hạnh phúc vô biên ấy. Ông vốc từng
vốc lớn chất liệu hiện thực và bày
biện một cách hết sức tài hoa, tinh vi lên trang
viết để thết đăi cả nhân dân ḿnh. Hàng
loạt tùy bút đặc sắc ra đời trong mạch
cảm hứng ấy : "Phở", "Cây Hà
Nội", "Con rùa thủ đô", "T́m hiểu
Sê Khốp",...
- "Sông Đà", viết từ 1958 đến 1960, là
cái mốc quan trọng, đỉnh cao mới
trong sáng tác của Nguyễn Tuân từ sau Cách mạng tháng
Tám. Tác phẩm như một ḍng thác lớn thanh âm ngôn
ngữ, cảm xúc, tư tưởng được khơi
đúng nguồn mạch chính, hệt con sông Đà "hung
bạo và trữ t́nh", chảy băng băng qua vùng Tây
Bắc hùng vĩ và ngạo nghễ với thời gian. Đọc
"Sông Đà", thấy trữ lượng cái Đẹp -
chất "vàng mười" của đất nước
và con người Việt Nam trong cuộc sống mới -
quả là nhiều vô kể. Cánh cửa tâm hồn tài hoa,
lăng tử của Nguyễn Tuân như mở toang ra cho cái
Đẹp ùa vào :
"Đời sống Tây Bắc ngày nay là một
tấm ḷng tin tưởng không bờ bến, tin ḿnh
tin người, mấy chục dân tộc miền cao và
đồng bằng tin cậy lẫn nhau, và nhất là tin
chắc vào cái chế độ đẹp sáng do tay ḿnh
đắp cao măi lên trên chỗ cao nguyên tiềm tàng
sức sống này".
- Từ sau "Sông Đà", Nguyễn Tuân tiếp
tục đi và viết nhiều, chủ yếu vẫn
ở thể tùy bút, được tập trung in trong các
tác phẩm tiêu biểu : "Hà Nội ta đánh Mỹ
giỏi" (1972), "Kư" (1976), "Hương vị
và cảnh sắc đất nước" (1978). Nh́n
chung, sáng tác thời kỳ này có thể phân thành hai
mảng chính : mảng thứ nhất viết về t́nh
cảm Bắc - Nam và đấu tranh chống Mỹ -
Ngụy chia cắt đất nước ; mảng thứ
hai tiếp tục khai thác vẻ đẹp của đất
nước và con người Việt Nam, của truyền
thống văn hóa Việt Nam trong thời đại
mới. Công cuộc chống Mỹ đă đưa dân
tộc ta lên tầm cao của thời đại mới.
Tinh thần quyết thắng từ tầm cao lịch
sử ấy là âm hưởng chung của văn học
thời kỳ này. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân đă thể
hiện tinh thần ấy theo một cách riêng. Dưới
ng̣i bút của ông, người Việt Nam vừa đánh
Mỹ vừa sản xuất trong tư thế ung dung, sang
trọng và đầy tài hoa ; tư thế của một
dân tộc không chỉ giành được chính nghĩa
trong chiến đấu giữ nước mà c̣n có bề
dày truyền thống văn hóa lâu đời. Nhiều bài
kư khiến người đọc phải ngỡ ngàng trước
một sức bút kỳ lạ với vốn sống
ngồn ngộn, tinh tế ; vừa đầy ắp liên tưởng
bất ngờ, thú vị vừa nóng hổi tính thời
sự. Giai đoạn này, bọn xâm lược Mỹ và
bè lũ tay sai như lọt vào đúng tầm ngắm
của Nguyễn Tuân. Sự đối lập rơ rệt
giữa truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc ta với dă tâm của kẻ thù tạo
nên nguồn cảm hứng lớn cho sáng tác. Ông đă nă
những phát cực kỳ lợi hại, bóc trần
bản chất xảo quyệt của chúng, dù được
chúng ngụy trang rất khéo léo ; góp phần động
viên và tăng cường nhận thức của quần
chúng về chiến tranh chống Mỹ, cứu nước.
1) Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh có nhận định
: "Hạt nhân của phong cách nghệ
thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một
chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển,
kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc
chí của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương,
Tản Đà,... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân
sinh nhà văn ; vừa mang dáng vẻ hiện đại,
ảnh hưởng từ các hệ thống triết lư
nổi loạn của xă hội tư sản phương
Tây như triết lư siêu nhân, quan niệm về con người
cao đẳng, thuyết hiện sinh...”
Ngông là biểu hiện của sự chống trả
mọi thứ nền nếp, phép tắc, định
kiến cứng nhắc, hẹp ḥi của xă hội
bằng cách làm ngược lại với thái độ
ngạo đời.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân chơi
ngông một cách cực đoan. Mọi sở thích, quan
niệm riêng đều được đẩy lên thành
các thứ chủ nghĩa : chủ nghĩa duy mỹ,
chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa hưởng
lạc, chủ nghĩa ẩm thực,.... Thực ra,
chủ nghĩa độc đáo trong đời sống cũng
như trong nghệ thuật mà biểu hiện là thú chơi
ngông của Nguyễn Tuân không chỉ đơn thuần là
phản ứng tâm lư của một cá nhân trước
tấn kịch xă hội. Nó c̣n bao hàm cái khí khái của
người trí thức yêu nước không cam tâm chấp
nhận chế độ thực dân, tự đặt
những nghịch thuyết để tách ḿnh ra và vượt
lên trên cái xă hội của những kẻ xu thời,
thỏa măn với thân phận nô lệ. Như vậy,
từ bản chất, cái ngông đó bao hàm một nội
dung luân lư đạo đức truyền thống. Sau 1945,
Nguyễn Tuân không c̣n lư do để mà gây sự, mà ném
đá vào đời như trước nữa. Cái ngông
tự mất đi phần cực đoan, chỉ giữ
lại cái cốt cách vốn tạo nên nét độc
đáo cho trang biết. Thói quen và sở thích t́m cách nói
mới lạ, không giống ai khiến ng̣i bút ông luôn tràn
đầy sáng tạo và có sức hấp dẫn mạnh
mẽ. Do đó, hoàn toàn có thể khẳng định : cái
ngông tồn tại như hạt nhân, chi phối toàn
bộ các phương diện khác của phong cách nghệ
thuật Nguyễn Tuân ; từ đề tài, hệ
thống nhân vật cho đến thể loại, giọng
điệu, ngôn ngữ.
2) Mới, lạ, không giống ai - là những đặc
điểm dễ nhận thấy ở hệ thống
đề tài. Mọi thứ Nguyễn Tuân bày biện
đều có hương vị đặc sản, từ
những nguồn "chưa ai
khơi" nên thường tạo được cảm
giác rất mạnh, ấn tượng rất sâu. Đến
với những trang viết của ng̣i bút tài hoa
ấy một mặt người đọc thấy say sưa
trước cảnh, t́nh và tri thức phong phú các các
loại được bày biện một cách đẹp
đẽ ; mặt khác, khi cảm giác nhất thời qua
đi, bao giờ người ta cũng thấy như quư yêu
thêm một chút, tự hào thêm một chút về dân
tộc ḿnh, về thời đại ḿnh đang sống.
Hóa ra những điều tưởng chừng tủn
mủn, lặt vặt kia được Nguyễn Tuân
gọi về để làm sống dậy trong chúng
những ư nghĩa có tính tư tưởng cao cả,
chứ không nhằm thỏa măn cảm giác hiếu kỳ,
hời hợt.
Hệ thống nhân vật của Nguyễn Tuân bao
giờ cũng mang dáng vẻ riêng, độc đáo và
rất đẹp - vẻ đẹp của tài hoa, của
nhân cách. Ở cả hai giai đoạn sáng tác, nhà văn
luôn trân trọng những "đấng tài hoa" và say
mê miêu tả, chiêm ngưỡng họ. Mỗi nhân vật
thường sành hơn người ở một thú chơi
hoặc một ngón nghề nào đó, đầy tính
nghệ thuật. Đó là cụ Kép, cụ Sáu, cụ Nghè Móm,
ông Phó Sứ, ông Cử Hai,... những nghệ sĩ
bậc thầy của nghệ thuật uống trà,
uống rượu, chơi đèn kéo quân và đánh
bạc bằng thơ (trong "Vang bóng một
thời"). Là ông Thông Phu lắm tài nhiều tật,
cuối cùng đă gục chết trên một ván cờ
đất v́ uất ức (trong "Chiếc lư đồng
mắt cua"). Tài hoa, một khi đi kèm với nhân cách
cao thượng th́ càng đáng kính trọng. Nhân vật
Huấn Cao tài hoa với khí phách, nghị lực phi thường
là một tính cách tiêu biểu, được Nguyễn Tuân
rất mực yêu thích.
Sự chuyển dịch của ư thức nghệ
thuật theo hướng đưa văn học về
với cuộc sống, phục vụ công cuộc bảo
vệ và xây dựng đất nước đă dẫn
tới việc mở rộng thế giới nhân vật
của trang viết Nguyễn Tuân. Nhưng không v́ thế mà
nhà văn đánh mất tính độc đáo, bất
biến của phong cách.Đó là niềm say mê phát hiện và
ngợi ca những vẻ đẹp của tài hoa, khí phách,
của văn hóa dân tộc : "Có cái như là Hoa Kỳ vừa đánh Hà Nội, vừa
thử tài sức và trí lực Hà Nội. Trong cuộc
đọ súng đọ lửa với giặc Hoa Kỳ,
quân và dân thủ đô càng đánh càng phát huy truyền
thống chống xâm lược của dân tộc ḿnh.
Chắc tay súng, đúng tầm đạn, chiều 5 tháng
5 vừa qua, tất cả cỡ súng Hà Nội có ṇng và tên
lửa không ṇng đă quần cho một trận tơi
bời (...). Chợ Ngọc Hà không phải vỡ chợ,
mà chính là xác thù đă vỡ tan trên một buổi
chợ chiều : mớ rau, xóc cua đồng, mẹt tôm
riu đều nhấp nhánh mảnh vụn đuy ra F.105. Cô
gái trại hàng hoa vứt đó cái ô-ḍa sắp tưới
vườn chiều, cầm vội tay súng và theo dơi
trận mưa đuy-ra đang phá vườn hoa hợp tác".
H́nh ảnh người lao động mới trong
"Sông Đà (1960) cũng thật đẹp đẽ, lung
linh giữa vùng hào quang của tài hoa. Chính họ, chứ
không ai khác, là những kỹ sư, nghệ sĩ đang
tự nguyện tự hào góp cái tài cái trí của ḿnh
để đắp xây cuộc sống mới, nền văn
hóa nghệ thuật mới.
3) T́m đến với tùy bút cũng là con đường
tất yếu của cá tính và phong cách Nguyễn Tuân. Dường
như ông chỉ có thể gắn bó với lối văn
nào thật sự tự do và chấp nhận những
cảm xúc đậm màu sắc chủ quan. Trong tay ông,
thể tùy bút đă đạt đến đỉnh cao
của khả năng ghi nhận và thể hiện đời
sống.
- Xét đến cùng, cái duyên riêng không lẫn
lộn, không ai bắt chước được của tùy
bút Nguyễn Tuân chính ở sự linh hoạt, phong phú
đến thần t́nh của giọng điệu văn
chương. Có nhiều chi tiết tưởng rất b́nh
thường nhưng bằng giọng điệu độc
đáo, khả năng quan sát sắc sảo, thông minh, hóm
hỉnh cộng với hệ thống lư lẽ khúc
chiết, những triết lư có chiều sâu - nhà văn
đă khiến nó trở nên lung linh kỳ ảo, gợi
mở nhiều liên tưởng mới lạ. Giọng
điệu của tùy bút Nguyễn Tuân thường là
giọng kể. Người dẫn chuyện luôn đóng
vai tṛ quan trọng, trực tiếp tham gia vào câu chuyện
và có quan hệ thân mật, tin cậy với các nhân
vật khác. Người ấy thường có giọng
lịch lăm, đôi khi tỏ ra hoài nghi, đùa bỡn nhưng
vẫn đảm bảo độ mănh liệt của
cảm xúc và tầm cao tư tưởng bằng rất
nhiều từng trải.
Đặc điểm nổi bật của giọng
điệu tùy bút Nguyễn Tuân chính là sự phong phú,
đa thanh, thỏa măn đến hoàn hảo những
sắc thái t́nh cảm tinh tế nhất. Trong mọi t́nh
huống nhà văn luôn có cách nói phù hợp, không chung
chung, tạo được không khí cần thiết cho ư
đồ nghệ thuật của ḿnh. Dường như
một khi đă bắt đúng giọng th́ không c̣n
giản đơn là viết nữa, nhà văn trở thành
nghệ sĩ, mặc sức vẫy vùng múa lượn trên
đỉnh cao sáng tạo nghệ thuật. Như ḍng sông
Đà "vừa hung bạo vừa trữ t́nh", mạch
văn có lúc cuồn cuộn, ầm ào, gân guốc ; có lúc
đằm thắm, sâu lắng, thiết tha :
"C̣n xa lắm mới đến cái thác dưới.
Nhưng đă thấy tiếng nước réo gần măi
lại, réo to măi lên. Tiếng
nước thác nghe như là oán trách ǵ, rồi lại như
là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng
gằn mà chế nhạo. Thế rồi nó rống lên như
tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn
giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa,
đang phá tung rừng lửa, rừng lửa càng gầm
thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. Tới cái thác
rồi. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt
đă trắng xóa cả một chân trời đá".
" Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ t́nh,
đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong
mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và
cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
- Nguyễn Tuân có lối ví von, so sánh thật chính xác,
mới lạ ; sự vật được miêu tả
trong trường liên tưởng, cảm giác chuyển
đổi tinh tế, bất ngờ :
"Nước bể Cô Tô sao chiều nay nó xanh quá
quắt đến như vậy ? (...) Cái màu xanh
luôn luôn biến đổi của nước bể
chiều nay trên biển Cô Tô như là thử thách cái
vốn từ vị của mỗi đứa tôi đang
nổi gió trong ḷng. Biển xanh như ǵ nhỉ ? Xanh như
lá chuối non ? Xanh như lá chuối già ? Xanh như mùa
thu ngả cốm làng Ṿng ? Nước biển Cô Tô đang
đổi từ vẻ xanh này sang vẻ xanh khác. Nó xanh như
cái màu áo Kim Trọng trong tiết Thanh Minh ? Đúng một
phần thôi. Bởi v́ con sóng vừa dội lên kia đă
gia giảm thêm một chút ǵ, đă pha biến sang màu khác.
Thế th́ nước biển xanh như cái vạt áo nước
mắt của ông quan Tư Mă nghe đàn t́ bà trên con sóng
Giang Châu th́ có đúng không ? (...) Sóng cứ kế
tiếp cái xanh muôn vẻ mới, và nắng chiều luôn
luôn thay mầu cho sóng. Mà chữ th́ không tài nào tuôn ra
kịp với nhịp sóng".
Nhà văn như mê mẩn trong ma lực của ngôn
từ và truyền được trọn vẹn đến
người đọc chất men say nhiều khi kỳ quái
ấy. Nguyễn Tuân có một kho từ vựng hết
sức phong phú do cần cù tích lũy cả đời,
với ḷng yêu say mê tiếng mẹ đẻ. Không
chỉ góp nhặt những từ sẵn có, ông c̣n luôn có
ư thức sáng tạo từ và cách dùng từ mới,
lạ. Rất nhiều từ ngữ tưởng như
đơn nghĩa hoặc cũ ṃn, nhưng khi vào tay ông,
chợt trở nên dồi dào sức biểu hiện. Hăy
xem cách ông dùng hai từ "góa bụa" và "lơa
lồ" :
"Hiu quạnh sống trong người ḿnh và chung
quanh ḿnh, cái ǵ cũng gợi đến
những ư vắng, lạnh và cũ và mỏi và ngừng
hết. Ngồi ăn một ḿnh cả một mâm cơm
chiều nay, tự nhiên tôi có cái cảm tưởng
gở dại là ḿnh đă trở nên một người
góa bụa, hoàn toàn góa bụa. Góa vợ con, thân thích, anh
em bạn, góa nhân loại, góa tất cả. Bát cơm và
vào miệng, chỉ là những miếng thê lương".
"Măi đến bây giờ về gần đến
Phố, tôi mới nhớ ra trong xe c̣n có thêm một hành
khách nữa. Ấy là một người đàn bà,
một thứ đàn bà tồi. Tồi ở chỗ lơa
lồ trong câu nói tiếng cười. Tồi ở cái cách
phục sức rẻ tiền mà cứ gắng làm ra
lộng lẫy cho kỳ được".
Vốn từ vựng ấy, có lúc Nguyễn Tuân dùng
để chơi ngông với đời, hoặc để
trêu ghẹo thiên hạ và xót xa cho thân ḿnh. Ông tự
nhận xét : "Ngôn ngữ của
Nguyễn lủng cà lủng củng, dấm dẳn cứ
như đấm vào họng. Đọc lên nghĩa tối quá
lời sấm ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn
một cách bướng bỉnh v́ đời nó ngu thế
th́ không bướng bỉnh sao được". Từ
sau Cách mạng tháng Tám, không c̣n cực đoan nữa,
Nguyễn Tuân dùng ngôn từ như công cụ đắc
lực để cất cao lời ngợi ca tổ
quốc, ngợi ca nhân dân ḿnh và giáng những đ̣n
thật cay độc vào bản chất tàn bạo của
kẻ thù.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại,
Nguyễn Tuân thật xứng đáng ở tầm cỡ
nhà văn lớn. Nói đến ông, người ta nghĩ
ngay đến một sự nghiệp sáng tác đồ
sộ, rất mực tài hoa và độc đáo. Không
thể tưởng tượng nổi sẽ lạnh
lẽo và tiêu điều tới mức nào nếu đại
ngàn văn chương dân tộc thiếu vắng
những nghệ sĩ ngôn từ bậc thầy như nhà
văn Nguyễn Tuân.
Đặc biệt, Nguyễn Tuân "lớn" ở
cả hai thời kỳ, từ cuộc đời cũ
đến cuộc đời mới ; vừa là cây bút
nổi bật của xu hướng văn học lăng
mạn trước năm 1945 với đủ thứ
"tật bệnh điển h́nh", vừa ở trong
hàng ngũ những nhà văn thành tâm chào đón và chân
thành đi theo Cách mạng đến cùng. Trong hành tŕnh
gian khổ hơn nửa thế kỷ ấy có lúc va
vấp, có lúc chênh vênh, cũng có lúc phải tự
"lột xác" đớn đau, nhưng nhà văn
vẫn luôn giữ vẹn được nhân cách, bản
ngă của ḿnh. Cái ngông, suy đến cùng, lại như
một giá trị, được đảm bảo
bởi sức bền vững của tài hoa và tầm cao tư
tưởng nghệ thuật. Trên đỉnh cao sáng
tạo vừa chói ḷa vinh quang vừa cực kỳ cheo leo
hiểm trở, nhà văn phải dốc đến kỳ
cùng sức lực để không trở nên nhạt
nhẽo, vẫn luôn giữ được nét độc
đáo của phong cách nghệ thuật.
Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ
ở thành tŕ cái Đẹp là biểu hiện sinh động
của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn
Nguyễn Tuân "đặc Việt Nam" (chữ dùng
của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới
thực tế sáng tác. Chất văn hóa như sợi
chỉ đỏ xuyên suốt, là cái phần cơ bản
nhất làm nên giá trị vĩnh hằng cho văn
nghiệp của ông.
Do đó, vẻ đẹp của trang viết
Nguyễn Tuân là kết quả tất yếu từ
một cách viết mang chiều sâu, bề rộng và
tầm cao văn hóa. Ḷng yêu nước và tinh thần dân
tộc, đặc biệt biểu hiện ở thái độ
thành kính trân trọng tiếng mẹ đẻ và các giá
trị truyền thống chính là động lực bên
trong, thôi thúc nhà văn không ngừng t́m ṭi, khơi
nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới.
Ông xứng đáng được mệnh danh là "chuyên
viên cao cấp tiếng Việt", là "người
thợ kim hoàn của chữ" (Ư của Tố Hữu).
Trong lâu đài văn chương nghệ thuật dân
tộc Việt Nam ở thế kỷ 20, rất dễ
nhận ra phần chạm trổ tinh xảo của người
nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân.