DÃ TRÀNG
Dã Tràng nằm võng vui vẻ nói chuyện với vợ; chị ngồi dưới đất đan rổ; chàng hăng hái kể: "Mình ạ, tôi vừa bắn chết con rắn hổ mang cái ở vườn nhà ta; chả là mấy tháng trước, tôi có kể chuyện với mình rồi đấy, khi rắn vợ lột xác, rắn chồng hàng ngày bắt nhái về cho vợ ăn. Thế mà mấy hôm nay, đến lượt rắn chồng lột xác, rắn vợ ngày ngày ra khỏi hang, đi chơi với một con hổ mang đực, chẳng tha được con mồi nào về cho chồng ăn. Lúc nãy, tôi thấy ả hổ mang quấn quít với cậu rắn đực, rồi đứng lại ở ngoài hang, con đực một mình len lén bò vào cửa hang, chắc nó định vào cắn chết hổ mang chồng. Tôi liền giương cung nhằm bắn, chẳng may mũi tên lại trúng đầu con hổ mang cái, con đực chạy biến mất, thế có tức không?". Chị vợ vừa nói :"Tội nghiệp nhỉ!" thì một vật sáng loáng rơi từ trên mái nhà xuống, lăn dưới võng. Vợ chồng Dã Tràng giật mình, cùng vồ lấy; Dã Tràng reo: "Viên ngọc, viên ngọc, mình ạ!". Hai vợ chồng ngắm nghía; bỗng nhiên Dã Tràng nghe thấy có tiếng nói từ trên mái nhà vọng xuống: "Tôi xin biếu ông viên ngọc rắn này để trả ơn ông; tôi vẫn tưởng ông độc ác giết vợ tôi, nhưng vừa rồi, nghe chuyện ông kể, hoá ra ông là ân nhân của tôi. Có viên ngọc này, tôi nghe và hiểu được tiếng người; có viên ngọc này, ông nghe và hiểu được tiếng của tất cả các loài chim thú". Nói xong, hổ mang luồn qua mái nhà đi mất, nó không ở trong hang vườn nhà Dã Tràng nữa. Từ hôm có viên ngọc, Dã Tràng tò mò nghe đủ các thứ chuyện, chuyện dưới ao của ếch nhái, chuyện chim chóc trong vườn, chuyện lợn ủn ỉn, chuyện trâu bò thủ thỉ với nhau; vợ chàng hay lấy trộm viên ngọc, nghe gà vịt cãi nhau ỏm tỏi, nghe chó mèo chửi bới ra trò. Hoá ra, cái thế giới loài vật cũng lộn xộn, khoẻ bắt nạt yếu, quan hà hiếp dân, chẳng khác gì thế giới loài người. Chỗ đẹp, chỗ cao ráo thì quan chiếm đoạt, cống rãnh bùn lầy thì dành cho dân. Một hôm, Dã Tràng đến chân núi để xem cuộc sống các loài chim muông khác. Ðàn quạ bay lượn trên đầu chàng, bảo: "Ven rừng bên kia có một con dê bị hổ vồ, đến mà lấy thịt về ăn, còn bộ lòng để cho bọn quạ chúng tôi nhé!". Về đến nhà, chàng bảo mấy ông hàng xóm mang dao và rổ ra lấy thịt dê về. "Chớ lấy bộ lòng, của đàn quạ đấy" - Chàng dặn kỹ. Song họ tham lam, lấy cả thịt, cả đầu, cả bộ lòng về. Hôm sau, đàn quạ sà xuống thì thấy khoảng đất trống trơn, bọn quạ tức quá, bay đến nhà Dã Tràng chửi bới om xòm. Chàng phân trần, xin lỗi, hứa hẹn nọ kia, song chẳng ăn thua; bầy quạ càng nhiếc móc thậm tệ. Tức mình, Dã Tràng mang cung tên ra doạ. Chàng bắn một mũi tên, quạ đớp luôn. Chúng bay tản đi, kêu lên mấy tiếng cuối cùng: "Chúng tao sẽ báo thù. Cho mày vào tù". Quạ bay qua sông, thấy một xác người đang trôi, liền cắm mũi tên có khắc chữ "Dã Tràng" vào cổ xác chết. Quan huyện cho vớt xác, thấy cái mũi tên của Dã Tràng, cho bắt giam và tra hỏi. Chàng biện bạch thế nào cũng vô ích. Quan cho giải chàng lên kinh để vua xử. Sớm hôm sau, chàng bị đàn chim sẻ bay ào ào đánh thức; chàng lắng nghe xem chúng nói chuyện gì. Chúng rủ nhau hàng đàn, hàng đàn bay ra biên giới vì xe chở thóc cho quân lính nước láng giềng bị đổ tung toé; nước láng giềng thừa cơ nước bên này không phòng bị, định đánh úp và chiếm tỉnh biên giới rồi tiến về kinh đô. Chim sẻ kháo nhau như vậy. Biết tin bí mật trọng đại này, Dã Tràng xin với quản ngục cho chàng được gặp quan Tổng đốc tỉnh. Ðược tin, quan một mặt điều quân ngay tức khắc ra biên giới, mặt khác cho đội quân do thám phóng ngựa đi trước. Quả đúng như vậy, nước láng giềng thấy việc quân bị lộ, liền rút quân và tướng về. Dã Tràng lập công lớn, tức khắc được trả tự do. Chàng trở về quê nhà; đến tối mới được nửa đường. Chàng vào ngủ nhờ nhà một bạn cũ. Lâu ngày không gặp, lại nghe Dã Tràng kể nỗi oan của mình, anh bạn vừa mừng vừa thương bạn. Hai người nói chuyện đến khuya. Trước khi đi ngủ, anh bạn bảo vợ: "Sáng mai anh Dã Tràng về, mình dậy sớm làm thịt con ngỗng, mình nhé! Bao nhiêu năm nay mới gặp nhau." Dã Tràng nằm ở cái giường kê cạnh cửa sổ trông ra vườn. Chàng trằn trọc không ngủ được. Bỗng chàng nghe thấy ở ngoài vườn tiếng khóc thút thít, thoạt đầu nho nhỏ, sau to dần; chàng lắng nghe. Một con ngỗng vừa khóc vừa nói: "Anh ở lại trông các con, để em chết, anh ở lại...", tiếng nức nở làm ngỗng cái nghẹn lời. Ngỗng đực nói: "Em là mẹ, em phải sống để trông con; sớm mai, anh đứng ngoài cửa vườn, đợi bà chủ đến bắt, em nghe anh!". Tiếng khóc sẽ dần. Dã Tràng không thể nào chợp mắt, chàng thức cho đến rạng sáng. Khi thấy anh, chị bạn mở cửa, chàng nhỏm dậy, chạy ra bảo: "Anh, chị chớ làm thịt ngỗng, tôi không dám phiền anh chị đâu; anh chị cho ăn cơm rau thì tôi xin ở lại; nếu làm thịt ngỗng thì xin phép anh chị cho tôi đi ngay". Thấy Dã Tràng kiên quyết như vậy, anh bạn đành thôi; chị chủ nhà vào vườn hái mớ rau dền để nấu canh; nhà đã có tép và cá. Sau bữa cơm, Dã Tràng cám ơn vợ chồng bạn ra về. Ðến đầu ngõ, chàng thấy hai con ngỗng cùng với đàn con đã chờ sẵn. Ngỗng đực nhả ra từ miệng một viên ngọc, nói: "Xin đội ơn ngài đã cứu mạng, tôi biếu ngài viên ngọc ngỗng này; mang ngọc trong người, ngài rẽ sóng mà đi dưới nước như đi trên cạn; khoắng mạnh, ngọc sẽ làm rung động cả biển rộng". Cả nhà ngỗng vươn cổ cúi rập đầu xuống rồi chạy ra bãi cỏ. Dã Tràng bỏ viên ngọc vào túi. Ðến con sông ngăn trước mặt, chàng bước xuống sông; lạ lùng thay, nước rẽ thành một con đường, chỉ một loáng, chàng đã sang đến bờ bên kia. Chàng dừng lại, bước xuống nước; lần này chàng đi xuống đáy sông; chàng cầm viên ngọc khoắng thật mạnh. Ngày ấy, triều đình Long Vương ở biển Ðông đang mở hội, bỗng thấy lâu đài, cờ lọng, cây vàng, lá ngọc bỗng rung lên dữ dội nghiêng ngả như sắp đổ. Long Vương cho mấy triều thần cưỡi rùa đi dò la. Ðoàn người băng băng theo những làn sóng dữ đang gầm thét, bơi ngược dòng sông, chỉ chốc lát đã đến nơi gây tai họa. Dã Tràng đang vung tay khoắng viên ngọc dưới nước thì thấy một vị quan xuất hiện. Vị quan cúi rạp người xuống, nói: "Xin Ngài chớ khoắng nữa, chúng tôi mời ngài đi yết kiến Ðại Long Vương chúng tôi ngoài biển". Chàng thấy một con rùa khổng lồ bơi lại gần chàng, chàng ngồi lên lưng rùa. Ðoàn người rẽ sóng đi sâu xuống mãi dưới đáy biển. Bỗng nhiên trước mắt Dã Tràng một đô thành với những cung điện nguy nga, vàng bạc sáng ngời. Long Vương oai nghiêm từ ngai vàng bước xuống, mời chàng ngồi vào bàn tiệc. Trong khi uống rượu, Long Vương hỏi Dã Tràng và biết bí mật của chàng, viên ngọc Ngỗng có thể làm rung chuyển thuỷ cung. Sau khi bàn bạc với Tể tướng, Long Vương cho Tể tướng mang tặng Dã Tràng không biết bao nhiêu vàng, ngọc trai đựng trong một tay nải bằng gấm thêu rồng, thuồng luồng, mực, san hô, sóng biển... Cuộc tiễn đưa rất linh đình. Tể tướng và Dã Tràng vượt sóng, đến bên sông. Quan đại thần nhất định xin đưa chàng về đến tận nhà. Ðến nhà Dã Tràng, Tể tướng quan sát khắp gian nhà, nhìn kỹ và chào phu nhân Dã Tràng rất cung kính, rồi xin cáo lui. Dã Tràng vốn người hào hiệp, được xóm làng yêu mến đến mừng đông nghìn nghịt; chàng tặng mỗi người một hạt ngọc trai hoặc một hột vàng bằng hạt lựu mà chàng chứa đầy trong tay nải. Vợ Dã Tràng đeo một vòng hạt trai nơi cổ, mấy vòng vàng ở tay, chị ngắm viên ngọc Rắn và ngọc Ngỗng suốt cả ngày không chán mắt. Dã Tràng sợ mất, chàng khâu một cái túi đựng hai viên ngọc quý, luôn luôn đeo ở cổ.
Một hôm, Dã Tràng sang làng bên ăn giỗ. Giữa chừng, chàng chợt nhớ là khi tắm ở nhà, chàng để quên túi ngọc trên mặt tủ, chàng tái xanh mặt mũi, tìm cớ xin về. Chàng vừa đi vừa chạy, trống ngực đánh thình thình. Về đến ngõ, cổng ngõ mở toang; vào nhà, cửa nhà cũng mở mà không thấy vợ đâu; chàng hốt hoảng tìm túi ngọc trên tủ, trên bàn, ngoài giếng, chàng lục tung hòm đựng quần áo, hòm sách, giường nằm; mồ hôi chàng vã ra như tắm. Chợt chàng trông thấy một mảnh giấy có mấy dòng chữ nguệch ngoạc để trên án thư. Thư viết: "Anh Dã Tràng, quan Tể tướng của Long Vương đến nhà, bảo nếu em mang hai viên ngọc dâng cho Long Vương, em sẽ được làm hoàng hậu nơi thuỷ cung. Anh đừng tìm em làm gì". Dã Tràng kinh hãi, nghĩ: "Mình không còn gì!", rồi nằm vật xuống giường; chàng ôm mặt khóc. Chàng oán vợ, căm tức lão Tể tướng và Long Vương đã âm mưu cướp ngọc của chàng. Ngày lại ngày trôi qua. Dã Tràng không thể nguôi; chàng đau đớn và gầy võ vàng. Mặc những lời can ngăn của làng xóm, chàng bán nhà, bán vườn, ra bờ biển dựng nhà mới; chàng mua một cái xe. Và hàng ngày chàng chở cát lấp biển, chàng định đắp một con đường xuống Thuỷ cung đòi lại hai viên ngọc. Mỗi ngày chàng đắp được một dải cát, chiều đến lại bị sóng biển đánh tan. Chàng đắp mãi năm này qua năm khác; sóng đánh, không để lại một dấu vết. Chàng đã già, đầu tóc bạc phơ vẫn ngày ngày xe cát. Dã Tràng xe cát cho đến khi chết. Chết rồi nhưng ông vẫn không thôi xe cát; ông hoá thành một con cua nhỏ, yếu ớt, ngày ngày đào cát lấp biển; sóng triều lên, đánh tan công trình đơn sơ của nó. Người ta gọi nó là con Dã Tràng. Dân gian có câu ca:
Dã Tràng xe cát biển Ðông
Nhọc lòng mà chẳng nên công cán gìVà:
Công Dã Tràng hàng ngày xe cát
Sóng biển dồn tan tác còn chi.
(Có truyền thuyết nói rằng
con quạ tai ác lấy trộm viên ngọc quý, bay ra biển, ngọc rơi xuống biển. Tiếc
viên ngọc, Dã Tràng xe cát lấp biển để tìm viên ngọc.)
Thông tin trên mạng Netcodo
Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ tại
Ban Biên Tập Mạng Netcodo
Ðiện thoại: (54)847247 - Email Intranet: quantri@netcodo.vnn.vn
Email Internet: netcodo@hue.vnn.vn