NGƯU LANG, Chức Nữ
Tản Ðà có thơ:
Trên trời Chức Nữ cùng Ngưu Lang,
Một dải sông Ngân lệ mấy hàng...
Nhân dân ta hát:
Tục truyền tháng bảy mưa Ngâu
Con trời lấy chú chăn trâu cũng phiền.
Một là duyên, hai thời là nợ.
Sợi xích thằng ai gỡ cho ra...
Hàng năm, ngày mồng bảy tháng bảy, trời thường mưa nhỏ, mưa suốt cả ngày. Người ta bảo nhau: "Mưa Ngâu đấy!". Mưa "Ngâu" hay mưa "chàng Ngưu", tức "chú chăn trâu" (Ngưu, chữ Hán, là con trâu). Ðó là những giọt nước mắt từ trên trời nhỏ xuống trần gian của Ngưu lang (chú chăn trâu) và Chức nữ (nàng tiên dệt vải, con Trời), trong buổi gặp gỡ mỗi năm một lần, bên sông Ngân. Chuyện xưa kể:
Một chàng chăn trâu vào rừng cắt cỏ, càng cắt càng mải mê, bởi vì chàng càng đi, cỏ càng xanh tươi, nhựa cỏ càng ngọt. Quá trưa lâu rồi, chàng vẫn cắt, hai tay đưa liềm thoăn thoắt và bó cỏ không biết mỏi. Chàng đã vào sâu lắm trong rừng. Bỗng đến một quãng rừng thưa, chàng thấy một khoảng trời xanh ngắt; hương thơm của rừng quế, rừng ngọc lan ngào ngạt bao quanh chàng. Ðặt gánh cỏ bên một bụi cây gai, chàng đi mấy bước thì, lạ lùng thay, trước mặt chàng, ba nàng tiên đang tắm bên giếng, nước giếng trong vắt, lóng lánh, tưởng như pha lê tan thành nước. Ba tiên nữ trong ngọc trắng ngà đùa nghịch, nước bắn tung toé, tiếng cười khanh khách giống như tiếng bạc, tiếng vàng. Chàng chăn trâu nhìn xung quanh, thấy ba bộ cánh chim thiên nga trắng như tuyết, mỏng như tơ, đặt dưới một lùm cây, chàng rón rén lấy trộm một đôi cánh tiên, rồi trở lại, giấu sau gánh cỏ xanh. Tắm xong, ba nàng tiên dắt tay nhau đến chỗ để cánh; chỉ còn hai đôi; hai nàng lấy cánh của mình bay lên trời. Nàng thứ ba hốt hoảng tìm khắp xung quanh. Trên cao, hai nàng liệng mấy vòng chờ bạn, rồi vụt bay mất, khi thấy một người con trai bất thần xuất hiện bên giếng. Nàng thứ ba khiếp sợ, nép vàp một bụi lau, nước mắt ròng ròng. Chàng trai đến gần, quỳ xuống chân nàng, không nói. Thấy người con trai cúi khuôn mặt sáng sủa, hiền hậu xuống đất, nàng đỡ sợ. Nàng bảo: "Chàng hãy trả cánh cho ta, để ta về kẻo trời tối rồi". Chàng trai đứng ngay dậy, vừa kiên quyết vừa dịu dàng nói: "Không, không! Nàng tiên ơi, nàng ở lại đây với ta, chúng ta sẽ sống hạnh phúc với nhau. Nàng không về được đâu". Nàng tiên kêu nài, chàng không nghe; giọng chàng vừa mạnh mẽ vừa thương yêu. Tiên nữ đành bước theo chàng chăn trâu, về nhà. Trời tối lắm. Căn nhà sạch sẽ cao ráo, vách gỗ, mái nhà lợp lá gồi, vườn nhiều cây, sân rộng. Chàng thắp đèn, sắp xếp chăn gối để nàng nằm ở cái giường đẹp; chàng bắc chõng tre, nằm góc ngoài. Ðợi nàng ngủ say, chàng lấy đôi cánh thơm tho giấu vào kho thóc. Ngày tháng trôi qua, hai người trở thành vợ chồng. Chàng chăm chỉ làm ăn; chàng hiểu tất cả hạnh phúc may mắn của mình, chàng dành cho vợ những miếng cơm ngon nhất, những lời nói dịu dàng nhất, song chàng vẫn lo sợ một ngày kia... Còn tiên nữ, nàng hưởng một hạnh phúc trên trời không thể có; những đêm nóng ấm, những lời nói nồng nàn, những chờ mong. Song nàng không thể nào quên cõi tiên của nàng. Một năm sau, nàng sinh một con trai kháu khỉnh; năm lên ba, nó để tóc trái đào, chẳng khác gì một tiên đồng; có khi suốt buổi, nó theo cha ra đồng chăn trâu. Ba người vừa quấn quít nhau vừa xa nhau. Ba người có chung một thế giới và mỗi người một thế giới riêng: "Một là duyên, hai thời là nợ".
Một hôm, chàng về quê ngoại, xa, xa lắm, phải vượt năm rặng núi, bốn con sông và biết bao là suối. Chàng dặn vợ:
- Mình với con ở nhà, có ăn thì ăn đụn lúa vang, rồi sang đụn lúa ré, chớ ăn đụn lúa rẹ, có tổ ong vò vẽ, nó đốt cả mẹ liền con.
Nàng không làm theo lời chồng dặn. ¡n hết đụn lúa vang, nàng ăn đụn lúa rẹ, chẳng thấy tổ ong vò vẽ bay ra đốt mẹ, đốt con mà thấy đôi cánh, đôi cánh vẫn một màu trắng muốt và mềm mại, giấu dưới mấy mo cau. Nàng mừng quá; nàng mang ngay ra sân, giang rộng hai cánh tay dài thon song song với hai cánh mượt mà. Nàng lượn trên sân, trên ngọn cây mít, cây bưởi, cây tre. Thằng con ngửa mặt nhìn mẹ, gọi: "Mẹ ơi, mẹ xuống đây, mẹ xuống với con!". Nàng đỗ nhẹ xuống sân, rồi lại bay lên. Thằng bé thích chí cười khanh khách.
Ngày qua ngày nhanh chóng. Chàng chăn trâu sắp đến ngày về. Nàng phải trở lại, trở lại thế giới tiên của nàng. Nàng gói bánh chưng, rang mấy mẻ gạo, trộn mật làm bỏng cho con. Nàng gỡ cái lược trên đầu, cài lên áo con và bảo: "Con giữ lược này đưa cha. Có bánh chưng, có bỏng gạo trong buồng. Con ngoan, đừng gọi mẹ". Nàng gạt nước mắt, bay lên trời.
Chàng trai trở về, thấy vắng vợ, hỏi con đủ ngọn ngành. Thằng bé đáp: "Ðây lược mẹ đưa cha". Chàng hiểu ra tất cả. Từ đấy, đêm đêm chàng một mình ôm ấp con; chàng cõng con ra đi. Ði mãi rồi cũng đến. Ðây giếng xưa trong suốt, song chẳng có bóng người. Chàng đặt con xuống bãi cỏ non, chờ mấy hôm đằng đẵng. Bỗng một buổi chiều, một bà tiên, tóc ngả bạc, từ trên trời bay xuống, vai quẩy đôi thùng trúc; bà múc nước giếng đầy hai thùng. Chàng trai vội vã đến bên bà, bày tỏ tình đầu và nhờ bà lên trời tìm người cũ. Chàng đưa bà cái lược làm của tin. Bà tiên tóc ngả bạc đỡ lấy lược, xoa đầu thằng bé nói:
- Thế a? Thế ra người là chồng nàng Chức ư? Con trai nàng đây ư? Ta biết nàng và chuyện của nàng. Ngày ngày, nàng dệt vải và thường đưa đôi mắt to và đen nhìn xuống trần gian. Nàng vẫn thương nhớ chồng con. Ta sẽ giúp người.
Nói rồi, bà vỗ đôi cánh lốm đốm bay lên trời với hai thùng nước giếng. Hai cha con mừng khấp khởi; chú bé sắp được gặp mẹ, chàng trai sắp được gặp vợ. Quả nhiên, ngày hôm sau, bà tiên tóc ngả bạc từ trên trời xuống, tay cầm một cái giỏ to, dòng một sợi dây dài thả từ trên trời xuống. Bà bảo hai cha con ngồi vào giỏ, nhắm mắt lại để lên trời gặp nàng Chức dệt vải. Xong đâu đấy, hai cha con thấy mình được nhấc bổng lên, rồi như bay lên cao, cao tun hút, cao mãi theo dòng dây cứ rút ngắn dần, mỗi khắc một thêm nhẹ nhõm trong không khí mát mẻ lạ lùng, hương thơm phảng phất. Rồi hai cha con thấy mình hạ xuống một bãi cỏ êm ái và được lệnh mở mắt: Nàng tiên đây, mẹ của bé đây; vợ của chàng đây. Nàng ôm chặt con, rồi đến bên chồng miệng khẽ gọi :"Chàng ôi!". Một giây phút ấm nóng gợi nhớ những đêm dưới hạ giới. Nàng khóc. Chàng trai cũng khóc. Nước mắt rơi xuống trần gian thành mưa. Hôm ấy là ngày mồng bảy tháng bảy. Tình yêu càng nồng cháy hơn xưa. Nàng bảo: "Ngọc Hoàng chỉ cho chúng ta gặp nhau một ngày hôm nay. Chàng và con lại trở về dưới ấy". Suốt một ngày, hai vợ chồng khóc ròng rã. Một ngày trôi qua nhanh trong nước mắt. Dưới trần, mưa tầm tã. Lúc hai cha con bước vào giỏ để xuống hạ giới, nàng tiên Chức đưa một nắm cơm, một cái trống và bảo: "Khi giỏ chạm đất sân nhà mình, chàng đánh ba tiếng trống để thiếp biết mà cắt dây".
Giỏ được thả xuống nhẹ nhàng; qua các làn mây mỏng rồi qua các đụn mây trắng như bông. Chú bé đói, đòi ăn. Nó để nắm cơm trên mặt trống; những hột cơm vãi tung toé trên mặt trống. Bỗng một đàn quạ sà xuống mổ những hột cơm vãi, bay lên lại sà xuống mổ ba lần. Nàng tiên nghe thấy trống gõ ba tiếng, liền cắt dây. Dây đứt đánh phựt. Giỏ rơi như bay như biến xuống biển. Ðàn quạ hoảng hốt bay vút lên trời kêu ầm ĩ cả thiên cung. Ngọc Hoàng nghe tiếng quạ, biết chuyện không may, liền phái bà tiên tóc ngả bạc xuống trần cứu cha con chàng trai, rồi đưa lên trời. Chàng được Ngọc Hoàng giao cho việc chăn trâu, và từ đấy mọi người gọi chàng là chàng Ngưu, hay chàng Ngâu. Chàng sống bên này dải Ngân hà, nàng Chức sống bên kia dải Ngân hà. Nàng ngày ngày dệt vải, thỉnh thoảng nhìn đăm đắm sang bên kia sông. Mây dăng trắng xoá trên Ngân hà. Mỗi năm, Ngọc Hoàng cho hai vợ chồng gặp nhau một lần vào ngày mồng bảy tháng bảy. Ðàn quạ đã gây tai họa phải đội đá bắc cầu cho chàng Ngâu sang sông gặp nàng Chức, trên trời gọi thân mến là "ả Chức". Hai vợ chồng gặp nhau một ngày, khóc ròng rã. Dưới trần, mưa rơi rả rích. Nước mưa vừa mặn vừa ngọt. Ðó là nước mắt của một tình duyên vừa đằm thắm vừa bi kịch.
Thông tin trên mạng Netcodo
Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ tại
Ban Biên Tập Mạng Netcodo
Ðiện thoại: (54)847247 - Email Intranet: quantri@netcodo.vnn.vn
Email Internet: netcodo@hue.vnn.vn