CHƯƠNG 2 : KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở VIỆT NAM
MỘT SỐ ĐIỀU CẦN BIẾT ĐỂ TÌM HIỂU VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRUYỆN THƠ "TIỄN DẶN NGƯỜI YÊU"
I. SỰ CẦN THIẾT TÌM HIỂU VĂN HỌC DÂN GIAN CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ |
Sự
thống nhất trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Dân
tộc Việt Nam là một cộng đồng bao gồm nhiều dân tộc. Bên
cạnh dân tộc Việt là dân tộc chủ thể, còn có các dân tộc
thiểu số khác sống rải rác trên mọi miền đất nước. Thành
phần các dân tộc có khác nhau, nhưng đều chung nguồn gốc Bách
Việt. Từ buổi đầu dựng nước đến nay, các dân tộc thiểu
số đã có sự tham gia tích cực trong việc xây dựng và bảo vệ
đất nước, xây dựng những truyền thống lịch sử, văn hóa
của đại gia đình dân tộc Việt Nam.
Nền
văn học dân gian thống nhất và đa dạng.
Văn
học dân gian các dân tộc thiểu số có những thành tựu độc đáo
với những sắc thái riêng biệt. Ðặc biệt, căn cứ vào quy
luật phát triển của sáng tác dân gian và thực tiễn sự tồn
tại những mảnh vụn thần thoại, các nhà nghiên cứuu văn học dân
gian Việt Nam đã nói đến sự tồn tại của các thể loại sử
thi, và thực tế đã sưu tầm, phát hiện được. Diện mạo của
nền văn học dân gian Việt Nam được nhìn nhận đầy đủ, chính
xác hơn trên mối quan hệ tổng thể văn học dân gian các dân
tộc. Ðó là một nền văn học dân gian thống nhất, đa dạng.
Văn
học dân gian dân tộc Kinh và dân tộc thiểu số có mối quan hệ
gắn bó, mật thiết, có sự giao lưu và chuyển hóa lẫn nhau đến
mức có những trường hợp không thể tách rời. Việc nghiên cứu
văn học dân gian các dân tộc thiểu số là rất cần thiết.
Việc
tìm hiểu văn học dân gian các dân tộc thiểu số còn thể hiện
đường lối dân tộc và đường lối văn hóa văn nghệ của Ðảng
ta, đó là bình đẳng dân tộc, phát huy truyền thống văn hóa
tốt đẹp của các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc
Việt Nam, nhằm góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa văn
nghệ Việt Nam thống nhất và mang tính chất dân tộc phong phú.
Do
nhiều hạn chế, việc trình bày văn học dân gian các dân tộc
thiểu số chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu khái quát.
II. MỘT SỐ ĐIỀU CẦN BIẾT ĐỂ TÌM HIỂU VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC THIỂU SỐ |
Trình
độ phát triển xã hội của mỗi dân tộc có sự khác biệt, không
đồng nhất, cần có sự xác định cụ thể.
Văn
hóa xã hội mỗi dân tộc cũng có những nét khác biệt nhau, biểu
hiện ở phong tục tập quán, tín ngưỡng, chế độ hôn nhân gia
đình, những nét sinh hoạt trong đời sống thực... đã để lại
những dấu ấn sâu đậm trong văn học dân gian. Khi tìm hiểu văn
học dân gian các dân tộc thiểu số, cần nắm được những đặc
điểm cơ bản để làm cơ sở cho sự phân tích, lý giải.
III. GIỚI THIỆU MẤY NÉT ĐẶC SẮC CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN DÂN TỘC THIỂU SỐ |
Thần
thoại bảo tồn được một số nét cổ hơn so với thần thoại
người Việt.
Kho
thần thoại giải thích tự nhiên rất dồi dào.
Sử
thi đậm đà chất thần thoại nổi bật hình tượng người anh hùng
dũng sĩ.
Khối lượng thơ ca dân gian lớn, có sắc thái trữ tình đậm.
SỬ
THI ÐAM SAN |
I.
Giới thuyết chung về sử thi
Thuật
ngữ và khái niệm
Tên
gọi trong giới nghiên cứu: truyền thuyết, anh hùng ca, trường ca,
sử thi anh hùng, sử thi ...
Người
Tây Nguyên: Êđê gọi Khan; Bana gọi Hơmon...
Ðây
là một thể loại tự sự dân gian về thời kỳ lịch sử khi loài
người bước vào xã hội văn minh, kể về những kỳ tích, sự
nghiệp anh hùng có tầm vóc lớn.
Sử
thi là những sáng tác tự sự có qui mô tương đối lớn, bằng văn
vần hay thứ văn xuôi giàu chất thơ. Nội dung bao quát cả đời
sống toàn dân trong suốt một thời kỳ lịch sử dài mà trung tâm
là những sự kiện có ý nghĩa trọng đại trong đời sống cộng
đồng.
Phân
loại
Sử
thi thần thoại (sử thi mo).
Là
những tác phẩm hình thành trên cơ sở hệ thống hóa các truyện
thần thoại, phản ánh lịch sử hình thành và phát triển của các
dân tộc, thuật lại lịch sử kỳ vĩ của sự hình thành đất nước,
dân tộc trên những điều thần thoại, truyền thuyết. Ðề cập
đến vấn đề nguồn gốc vũ trụ, cộng đồng người, sự tạo
lập bản mường, những thành tựu về sinh hoạt văn hóa vật
chất và tinh thần... trên một không khí có tính chất huyền
thoại.
Ðẻ
đất đẻ nước (Mường).
Sử
thi anh hùng (sử thi khan)
Là
loại sử thi nói đến sự hình thành cộng đồng thị tộc, bộ
lạc, những kỳ tích trong công cuộc xây dựng đời sống cộng đồng,
chinh phục tự nhiên, chiến đấu chống kẻ thù bên ngoài, ca
ngợi, cổ vũ lý tưởng cao đẹp của một thời đại là xây
dựng và bảo vệ cộng đồng yên vui.
Ðam
San (Ê Ðê), Xing Nhã (Gia Rai) ...
II.
Sử thi Ðam San
Tình
hình văn bản
-
Văn bản của Sabachier, một bản dịch tiếng Pháp (La chan son de Dam
San), Xb tại Paris 1929. Ðến 1933, tạp chí của học viện Viễn
Ðông bác cổ tại Hà Nội in lại dưới hình thức song ngữ Êđê
- Pháp.
-
1957, Ðào Tử Chí giới thiệu Ðăm Săn bằng tiếng Việt trên
tạp chí Văn nghệ số 1 /1957 - 1959, Nxb Văn hóa Hà Nội ấn hành tác
phẩm Bài ca chàng Ðam Săn.
-
Công trình văn học dân gian Êđê
do Ðinh Thế Lệ chủ biên và Ngô Ðức Thịnh cùng tham gia biên
soạn từ các đợt điền dã từ 1985 - 1987.
-
Ðam Săn, Nguyễn Văn Hoàn, Nxb KHXH, 1988.
Tóm
tắt
Bài
ca Ðam San bản do Ðào Tử Chí dịch gồm 7 chương khúc
1.
Chị em Hơ Nhí, Bhí theo luật tục của xã hội mẫu quyền
(tục chuê nuê) lấy Ðam San làm chồng, Ðam San tỏ ý không
thuận.
2.
Ðam San bỏ vê nhà chị Hơ Âng, đến khi bị trời (đu & điê)
làm chết đi sống lại 7 lần & cứu được Hnhí bị voi nhà
nổi điên tha vào rừng, Ðam San mới thuận.
3.
Ðam San đánh tù trưởng Mtao Grư (kên kên) giành lại Hnhí, bắt tù
binh, đoạt của cải.
4.
Ðam San đi phát rẫy, lên rừng săn thú, xuống suối bắt tôm cá,
đánh thắng tù trưởng Mtao Mxây (sắt)
5.
Ðam San chặt cây thần Smuk, cây đổ, chị em Hnhí, Bhí chết, Ðam
San lên trời toan chặt đầu trời, được trời giúp cho vợ sống
lại.
6.
Ðam San đi bắt nữ thần mặt trời để trở thành người tù trưởng
giàu có, đâu cũng khâm phục, bị
từ chối, Ðam San trở về chết chìm dưới đất nhão trong rừng
Sáp đen.
7.
Vía Ðam San hóa ruồi bay vào miệng Hơ Âng. Ðam San cháu ra đời
thừa kế của cải, quyền lực cậu và tiếp tục nối dây.
Nội
dung
Bài
ca Ðam San - bài ca cuộc sống tràn đầy khát vọng hào hùng
Ðam San là một sử thi
anh hùng. Sử thi anh hùng của các dân tộc chứa đụng những nội
dung xã hội rộng lớn của thời kỳ quá khứ của các dân tộc Tây
Nguyên. 2 chủ đề lớn của sử thi:
Ca ngợi những phẩm
chất tốt đẹp của nhân vật anh hùng đã có công bảo vệ cộng
đồng, đồng thời qua đó khẳng định một cách đầy tự hào
sự tồn tại và phát triển của xã hội cộng đồng.
Sự vận động chuyển
biến của xã hội, đi từ công xã mẫu hệ, dần dần phát triển
thành xã hội cộng đồng rộng lớn hơn trên đường tiến lên hình
thành dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.
Bằng
hình tượng nghệ thuật, sử thi Ðam San phản ánh trực tiếp khát
vọng hào hùng của lịch sử buổi đầu hình thành các dân tộc Tây
Nguyên.
Các
sự kiện và biến cố:
Ðam
San thực hiện tục chuê nuê.
Sự
kiện chặt cây thần Smuk.
Sự
kiện chiến đấu giành lại vợ.
Sự
kiện Ðam San đi bắt nữ thần mặt trời.
Hình
ảnh tái sinh.
Sử
thi Ðam San kể về cuộc đời ngang tàng đầy chiến công của người
anh hùng lý tưởng Ðam San. Nổi bật lên là những kỳ tích trong
lao động chế ngự lực lượng tự nhiên, những chiến công trong
chiến trận chống kẻ thù, sự vươn lên chống lại những trở
lực ràng buộc, cái cái chết đầy tính chất bi hùng của con người
quyết vươn tới ham muốn tột đỉnh của mình ...
Tác
phẩm khắc họa những tính cách đẹp đẽ, những hành động anh
hùng của tù trưởng Ðam San. Qua người anh hùng lý tưởng Ðam
San, tác phẩm phản ánh và ca ngợi công cuộc đấu tranh bảo vệ
và phát triển xã hội cộng đồng rộng lớn của dân tộc Ê Ðê.
Ðặc
điểm nghệ thuật
Nghệ
thuật tự sự
-
Kết cấu chương khúc: một chương khúc kể một sự việc, một
biến cố trọn vẹn xoay quanh một nhân vật trung tâm.
-
Phương
pháp nghệ thuật tương phản
Tác phẩm được cấu
tạo theo thủ pháp cặp đôi đối xứng trên nhiều mặt:
tên nhân vật, hành động nhân vật, tính cách nhân vật, những tình
huống tác phẩm ...
Hình
ảnh những trận chiến sôi sục trên hình ảnh sinh hoạt tươi
vui, thanh bình, người dịu dàng, đẽp đẽ, với lối cư xử cực
kỳ hiếu khách, đàn bà đẹp như bầu trời đầy ánh sao lấp lánh
...
-
Lối dùng điệp khúc, điệp ngữ, điệp từ
Kết
cấu sử thi được cấu tạo theo thủ pháp trùng lặp, nhiều đoạn
gần như là những điệp khúc, tạo nên âm hưởng tầng lớp.
Những thủ pháp này có liên quan đến việc làm nổi rõ chủ đề
tư tưởng của sử thi.
Người
tù trưởng đầu đội khăn kép, vai mang túi da.
-
Kiến trúc câu văn
Cân
đối và có nhịp điệu, dài.
-Tôi
nghỉ mười ngày, ngủ năm đêm, đi một năm.
-
Ngôn ngữ
Ngôn
ngữ cụ thể tràn đầy hình ảnh:
Ðông
như kiến, mối; trắng như hoa ê pang; dài như tiếng chiêng, như
sợi chỉ; thở như ngựa đương chạy; giọng nói như tiếng ve
sầu; lông chân mượt như chuôi dao ...
-
Nghệ thuật xây dựng hình ảnh
Nổi
rõ lên hệ thống các hình tượng đầy chất mỹ lệ.
Tả
người: mặt Ðam Săn đỏ như hơi men, cười miệng đỏ như dưa
gang, môi mỏng như lá tỏi, cổ trơn như cà chín.
Tả
cảnh: ánh sáng của chiếc khiên chói lọi như đèn đuốc. Vải
sợi nặng trĩu làm cong các sào phơi, thịt treo tối cả nhà.
Tả
việc: áo sắt rơi xuống. Mtao Mxây bỏ chạy. Chạy trốn chung
quanh chuồng lợn. Ðăm Săn phá tan chuồng lợn; trâu ...
TRUYỆN
THƠ TIỄN DẶN NGƯỜI YÊU |
1.
Giới thuyết chung về truyện thơ
Khái
niệm
Trong
văn học dân gian các dân tộc thiểu số tồn tại nhiều truyện
thơ được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Truyện thơ là
tập đại thành của dân ca, một hiện tượng đặc biệt trong văn
học.
Truyện
thơ là những truyện kể bằng thơ, biểu hiện cảm nghĩ bằng ngôn
ngữ giàu hình ảnh, cảm xúc, chứa đựng vấn đề xã hội. Có sư
kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình, dung lượng lớn, mang tính
chất cố sự của truyện kể dân gian, biểu hiện dưới hình
thức thơ ca với màu sắc trữ tình đậm.
Phân
loại
1.
Truyện thơ phát triển đề tài của tự sự xã hội
Vượt
biển (Khảm hải):
Ðây
là bức tranh hiện thực nghiệt ngã vẽ nên một thế giới những
linh hồn cực nhọc thảm sầu. Cái thế giới có vẻ hư ảo ấy
chính là phiên bản về một xã hội thực của người Tày - Nùng
với những nỗi oan trái của những kiếp người thấp cổ bé
họng cất lên tiếng khóc đau thương.
Chim
sáo, Nàng Kim Quế (Tày Nùng) ...
2.
Truyện thơ phát triển đề tài của dân ca trữ tình về tình yêu
và hôn nhân
Nàng
Nga Hai Mối (Mường). Nàng Ớm chàng Bồng Hương (Mường). Uït Lót
Hồ Liêu (Mường).Tiếng hát làm dâu (HMông). Nam Kim Thị Ðan (Tày).
Khun Lú Nàng Uía (Thái) ...
2.
Tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao)
Tình
hình văn bản:
-
Ðã được cố định hóa vào vô số những văn bản chép tay.
-
Bản 1957, Nxb Hội nhà văn, 1631 câu thơ, có đủ các đoạn chính.
-
Bản 1958, Sở văn hóa khu tự trị Thái Mèo
-
Bản 1960, Mạc Phi sưu tầm, dịch, khảo dị, chú thích, 1846 câu thơ.
Tóm
tắt tác phẩm
Truyện
kể về hai nhân vật Anh yêu và Em yêu từ khi còn là hai bào thai.
Họ được sinh ra gần như cùng một giờ, một ngày, một bản.
Từ thuở bé thơ, họ đã cùng chơi đùa nghịch đất, nghịch cát,
vầy cá trên mâm.
Ðến
tuổi hoa niên, đôi trẻ cùng ở sàn hoa (hạn khuống) tận khi gà
gáy đeo mộng về nhà lúc xế vầng trăng.
Sự
biến bắt đầu khi bà mẹ lấy áo chàng trai ra bói, quẻ bói không
nói được điều gì chắc chắn. Song Anh yêu & Em yêu đều tâm
niệm quyết lấy được nhau. Anh yêu tìm cách thoát khỏi cảnh nghèo
bằng cách Ði kiếm cá ngoài sông...
Ði Tà Bú mua đĩa. Ði Tà Hè mua tơ. Ði Tà Sại mua cau để sắm
sanh lễ vật nhờ mai mồi chuyển sang dạm người yêu ... Song
Anh
đã tính mà tính không đủ.
Anh
đã lo mà lo không tròn.
Cha
mẹ Em yêu cự tuyệt. Họ quyết gả Em yêu cho một gã con trai nhà
giàu nhưng xấu xí. Mẹ chưa ưng gã khi em còn trên nương, khi em đang
ngoài ruộng. Trước tình thế đã
rồi Em yêu đau khổ. Em yêu đành nhận người ta về ở rể
ngoài trong tâm trạng buồn khổ song vẫn hy vọng Anh yêu sẽ có cách
đổi thay số phận. Trước tình cảnh đó Anh yêu quyết chí đi buôn
đến tận Lào để tìm sự giàu sang mong trở về chuộc lại Em yêu.
Nhưng
thật éo le, đã bảy mùa cá
lũ trôi xuôi em yêu trông chờ đã hết hạn người kia làm rể
trong, rể ngoài, Anh yêu vẫn biệt tăm. Em yêu đã tìm mọi cách để
lùi ngày về nhà chồng từ tháng hai đến tháng chạp, nhưng cuối
cùng ngày ấy cũng đến, Em yêu phải làm theo ý mẹ cha. Khi Anh yêu
đã phong lưu băng băng trở về tìm đến nhà Em yêu thì sự đã
rồi:
Khi
anh ra đi cải chia cánh bướm
Khi
anh trở về cải già đơn hoa.
Mặc
cho phép cả có gốc tùng, phép thiêng có gốc quế, bất chấp
hiểm nguy, Anh yêu chạy theo em yêu. Cuộc tiễn dặn của đôi bạn
tình diễn ra. Anh trở về nhà, nhớ người bạn tình. Trong suy tưởng,
anh thấy hiện lên cảnh tượng chiến đấu giành lại Em yêu
quyết liệt.
Tình
cảnh Em yêu ở nhà chồng thật thê thảm. Người ta còn xui con
trai xuống đòn. Hắn trợn mắt ra tay ... vụt tới tấp. Sau một
thời gian, Em yêu bị nhà chồng đuổi về vì trong tình cảnh éo
le này, nàng không thể làm vừa lòng nhà người ta. Cha mẹ lại bán
đứt nàng cho một nhà quan. Nàng càng bi phẫn như người ngẩn ngơ,
vụng dại. Họ không muốn tốn cơm đem nàng ra chợ bán rao. Giá
Em yêu ngày nào đáng vàng thoi bạc nén,
bây giờ chỉ bằng một cuộn lá dong.
Người
đổi được nàng chính là người yêu cũ. Bây giờ Anh yêu đã có
cửa nhà, vợ con. Em yêu bây giờ cũng đổi khác đến mức Anh yêu
không còn nhận ra. Một ngày kia, nàng than thân trách phận đem
chiếc đàn môi kỷ niệm ra gảy. Anh nghe:
Sao
ngân rung như tiếng đàn người cũ,
Sao
thoảng chừng như giọng nhớ người thương.
Họ
nhận ra nhau. Anh yêu giã vợ trong tình thương mến cảm thông trong
cảnh Trời xa mưa rơi núi trám, trời chớp nhoáng đồi dong.
Nội
dung
Tiễn
dặn người yêu nói đến thảm kịch tình yêu trong xã hội phong
kiến Thái khắc nghiệt là lời tố cáo xã hội chà đạp tình yêu
con người, là một bức tranh về hiện thực lay động lòng người.
-Cúi
mặt nước mắt rõ,
Ngẩng
lên hàng lệ rưng ...
Tiễn
dặn người yêu còn là bài ca ca ngợi tình yêu chung thủy bất
diệt của con người vượt lên bao trở lực, thành kiến xã hội
tàn bạo, khắc nghiệt. Tác phẩm mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp.
-Không
lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông.
Không
lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi góa bụa về già.
Nghệ
thuật
-
Kết
cấu độc đáo, tràn đầy kịch tính.
-
Yếu
tố truyện trong thơ và thơ trong truyện.
Tiễn
dặn người yêu là truyện
trong thơ, có yếu tố tự sự, các sự kiện, chi tiết, hành động
... được khắc họa đậm nét. Tác phẩm còn là thơ trong truyện.
Ngôn ngữ kể chuyện được gọt giũa thành lời thơ, những câu
thơ gợi cảm, nhiều hình ảnh.
SÂN
KHẤU DÂN GIAN CHÈO |
I.
Giới thuyết chung về chèo
Chèo,
tuồng, múa rối là các loại nghệ thuật sân khấu dân gian
truyền thống rất lâu đời của dân tộc. Múa rối nước được
xác định ra đời khoảng thế kỷ X, XI ở đồng bằng Bắc Bộ
gắn với mặt nước hồ ao đồng ruộng. Các trò diễn của rối
nước khá phong phú, nhân vật chú Tểu rất quen thuộc với người
xem. Tuồng sớm đi vào cuộc sống cung đình và chuyên nghiệp hóa,
thế kỷ XIX là thời hoàng kim của nghệ thuật tuồng. Chèo phát
sinh và phát triển ở đồng bằng Bắc Bộ, là hình thức sân
khấu dân gian truyền thống phát triển cao, giàu tính dân tộc hơn
cả.
Nghệ
thuật sân khấu là một nghệ thuật tổng hợp, chèo đã sử
dụng một cách tổng hợp kho tàng văn học dân gian và nghệ
thuật dân gian: sự tích chủ yếu lấy từ truyện cổ tích,
truyện Nôm, ca vũ nhạc từ dân ca dân vũ, lời thơ chủ yếu là
thơ dân gian ...
Sân
khấu chèo dân gian đơn giản, những danh từ chèo sân đình,
chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Diễn viên nói chung là những
người không chuyên, hợp nhau trong những tổ chức văn nghệ dân
gian gọi là phường chèo hay phường trò... Từ thế kỷ XVI đến
XVIII - XIX, chèo phát triển mạnh ở vùng nông thôn, đã có những
vở nổi tiếng như Quan âm Thị Kính,
Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nhan, Trương Viên ... Ðến thế kỷ XIX, chèo
ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện như
Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng ...
Ðầu thể kỷ XX, chèo sân đình, chèo dân gian truyền thống được
đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn minh. Có thêm
một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích,
truyện Nôm như Tô Thị, Nhị Ðộ Mai ... Ngày nay, ngoài sân khấu
chuyên nghiệp, chèo vẫn sống trong nhân dân nhất là ở các tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của nhân dân,
những người yêu thích nền văn hóa truyền thống.
II
Nội dung xã hội của chèo dân gian
Chèo là hình thức kể
chuyện bằng sân khấu, chèo lấy sân khấu và diễn viên làm phương
tiện giao lưu với công chúng, nội dung của các vở chèo là nội
dung cốt lõi và tiêu biểu của những truyện cổ tích, truyện Nôm
được nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá
trị hiện thực và tư tưởng rất sâu sắc.
1.
Chèo là tấm gương phản ánh xã hội Việt Nam thời phong
kiến
Nội
dung chèo xoay quanh đời sống người nông dân trong quan hệ gia đình
và xã hội. Xã hội trong chèo là xã hội có những kẻ thống
trị, áp bức và những con người với những nỗi oan khuất,
thiệt thòi.
Giai
cấp thống trị phong kiến áp đặt trong xã hội nhiều giềng
mối, nhưng vua, quan trên chiếu chèo mờ nhạt, không thể hiện vai
trò đối với cuộc sống.
-Trời
sinh thánh ế.
(đế)
-Thánh đế chứ ?
-Ai
chẳng biết đế với vương, nhưng không ai hỏi đến thì chẳng
ế sưng ra à ?
-Trị
nước ngang lưng.
(đế)
- Trị nuớc lên ngôi chứ ?
-Nước
lên ngôi thì ngồi mà chết à ? (Phù thủy xưng danh)
Quan
lại trong chèo bộc lộ bản chất một bộ máy thống trị, áp
bức.
-Quan
đã ra, ai có gà thì nhốt lại.
(Từ
Thức).
Những
vị chức sắc trong làng xã hiện ra trên một chiếu chèo:
Trương
Tuần: -Cướp đến làng tôi bỏ chạy xa,
Cướp
chạy xa tôi vào vơ vét.
Xã
trưởng:
-Tôi đứng đầu trong xã,
Làng
ta đây lệnh nghiêm phép cấm,
Sao
còn giữ thói dâm hoang.
(nhìn
sang Mẹ Ðốp)
Nhuận
sắc gớm nhỉ. Mấy cháu rồi ?... Hôm nào mát giời tao sang ...
(Quan âm Thị Kính)
Thêm
vào đó là những bộ mặt đại diện cho bộ máy thống trị ở xã
thôn, những Thầy mù, Hương câm,
Ðồ điếc...
Những hoạt cảnh xã
hội được đưa lên sân khấu cho thấy thực trạng xã hội:
cảnh bắt lính, cảnh loạn lạc chiến tranh, cảnh bắt khoán,
cảnh nhà quan hạch sách, cảnh tiểu phá giới ...
Bên cạnh đó là thực
trạng cuộc sống người lao động nghèo khổ với những nỗi
khốn cùng, oan khuất. Cũng như những nhân vật của truyện dân
gian, họ là những người lương thiện, nhưng dưới xã hội bất
công đó, họ phải chịu nhiều thống khổ, trở thành nạn nhân
của sự áp bức, bóc lột: bị hãm hại, loạn lạc, đói khổ, thân
phận long đong, tủi nhục ...
-
Trách lòng ai nỡ phụ lòng,
Dang
tay nỡ bẻ phiếm đồn làm đôi.
-Giời
ơi oan con lắm mẹ ơi ! ...
Con
ơi dù oan dù nhẫn chẳng oan,
Xa
xôi cha biết nhẽ con nhường nào !
(Quan
âm Thị Kính).
2.
Chèo thể hiện tinh thần nhân đạo của nhân dân
Khi
phản ánh hiện thực xã hội, chèo thể hiện tinh thần đấu tranh
chống áp bức, tiếng nói đòi quyền sống cho con người. Bên
cạnh đó, chèo thể hiện lòng yêu thương, trân trọng đối với
những con người bị áp bức, cùng khổ, những con người có đức
tính, phẩm hạnh tốt đẹp mà trải qua những thử thách cam go,
những phẩm chất ấy càng toả sáng. Ðó là tấm lòng bác ái, đức
hy sinh, lòng hiếu thảo, sự trung trinh, phẩm chất trong sạch, lòng
dũng cảm ... Ðặc biệt, những người phụ nữ có số phận đau
khổ nhất chính là những tấm gương sáng về đạo đức, phẩm
hạnh.
-Về
cùng cha, có trở về như vậy,
Cũng
không sao tránh được tiếng mỉa mai.
Không
! Không ! Phải sống ở đời mới tỏ rõ là người đoan chính.
(Quan âm Thị Kính).
-Có sinh có đẻ cho cam,
Nàng
dâu nuôi mẹ thế gian mấy người.
(Trương
Viên).
III
Ðặc điểm nghệ thuật
Chèo
là một loại nghệ thuật tổng hợp nhưng căn bản là một loại
kịch hát mang tính chất diễn tích. Nhân dân gọi diễn chèo là hát
chèo, xem chèo là xem hát. Trên phương diện văn học, có thể đề
cập một số yếu tố nhất định.
1.
Yếu tố kịch tính
Chèo
là lối kể chuyện bằng sân khấu, tính tự sự là đặc điểm cơ
bản của chèo. Nhưng quá trình tự sự bằng sân khấu, sự phát
triển của tình tiết cũng làm nảy sinh kịch tính, những cái nút
của vở chèo.
Trong
vở Quan âm Thị Kính có 2 nút kịch: nỗi oan hại chồng và nỗi
oan tư thông. Trong vở Thạch Sanh: nút kịch trong gia đình, trong tình
duyên, trong tình huống giặc ngoại xâm.
2.
Phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật
Chèo
là một môn nghệ thuật độc đáo của dân tộc, nhân vật chèo có
phong cách thể hiện đặc sắc.
Lối
nhân vật tự giới thiệu:
-Ðạo
làm con ở cho phải nghĩa,
Ở
làm sao cho cha mẹ bằng lòng,
Nhất
hiếu lập nhi vạn thiện tòng,
Con
có hiếu bằng lòng mẹ cha.
-Tôi
Thị Mầu con gái phú ông ...
Tôi
muốn cho một tháng đôi rằm,
Trước
vào lễ phật sao thăm vãi già.
(Quan
âm Thị Kính).
-Tôi
Trần Phương quê ở Ðông Ngàn,
Nhà
cự phú lừng miền tỉnh Bắc.
Giầu
trọc phú ai mà dám địch,
Lợi
có rồi lại muốn cầu danh.
(Kim
Nhan)
Lối biểu hiện tính cách
nhân vật bằng hành động:
Trong
vở Lưu Bình Dương Lễ: hành động của Dương Lễ và Châu Long.
Trong
vở Quan âm Thị Kính: đoạn cắt râu chồng.
Tính
cách nhân vật còn được biểu hiện trong diễn xuất bằng các điệu
hát, múa đặc biệt của các nhân vật: điệu hát con gà rừng, múa
Vân dại, múa Thị Mầu ...
Lối
biểu hiện tính cách nhân vật bằng các loại vai:
Nhân
vật trong chèo gồm các vai: chín, lệch.
Thị
Phương, Châu Long, Thị Mầu, Xúy Vân ...
3.
Tính chất ước lệ và cách điệu
Ước
lệ, cách điệu là đặc trưng của nghệ thuật chèo.
Hóa
trang ước lệ.
Các
địa danh quen thuộc mang tính ước lệ: Kinh Bắc, Xuân Trường,
Kiếp Bạc, Bồ Ðề ...
Ngôn
ngữ đối thoại ước lệ:
-Em
ơi ! đây đã về tới quê nhà,
Nhà
tứ bích nhất bần như tẩy.
-Cha
nuôi con tính đã ba thu,
Mừng
con đã u ơ biết nói.
(Quan
âm Thị Kính)
4.
Ngôn ngữ
Do
đặc điểm sáng tác và diễn xướng, ngôn ngữ chèo có những đoạn
là những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những câu ca dao với
khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.
-
Một con dao bé sắc thay,
Chuôi
sừng bịt bạc về tay ai cầm.
(Chu
Mãi Thần).
-
Gió xuân đánh thốc cái yếm đào
Sao
anh trông thấy oản, anh chẳng vào thắp hương ?
(Quan
âm Thị Kính).
-Mối
này, mối ơi,
Miếng
giầu là đầu câu chuyện.
Mỗi
câu chuyện ta lại nghiện một miếng trầu mối nhỉ !
(Trần
Tử Lệ)
Các
biến cách tu từ trong chèo: hoán dụ, tỉ dụ, khoa trương ...
-Thuở
hàn vi hai sách một đèn.
Sách
có chữ rằng bần tiện bất năng di,
Âu
ta phải dùi mài đăng hỏa.
-Gái
bất nghì phó giả mẹ cha,
Ngựa
bất kham phó về Bồng Báo.
-Tiếc
công tôi rút trống bưng bồng,
Bồng
không được vỗ cực lòng tôi thay.
(Tuần
Ty Ðào Huế).
-Phật
bà ban cho tôi 360 tay quyết ấn,
Thầy
Ðường Tăng cho tôi 90 pho kinh,
Núi
Tôn Ngô tôi nhắm mắt bước qua.
-Tôi
Thị Mầu con gái phú ông,
Thầy
mẹ tôi tôn kính một lòng,
Tiền
cúng gạo lên chùa tiến cúng.
Bạch
nhà sư trong chùa, cho chú tiểu ra nhận lễ cho tôi còn về nào.
Thầy tiểu ơi ! Thầy như táo rụng sân đình ...
(Quan âm Thị Kính)
-Thương
ơi ! Ngày hôm qua ra đường gặp gái
Tôi
đi không lại trở về không.
Ngày
hôm nay tang tảng rạng đông
Vào
hầu sớm kẻo quan ngài đi vắng ...
(Lưu
Bình Dương Lễ).
Ngôn
ngữ nhân vật:
Mỗi
nhân vật có giọng điệu riêng.
-Trình
lạy cha,
Sinh
con là gái,
Con
giữ đạo tam tòng,
Riêng
con e một cõi linh thông,
Muộn
mằn chửa nảy chồi đan quế.
Thân
Lão lai xưa người ví thể,
Ðem
bố kinh thay đổi gọi là,
Chữ
tòng phu con đã xuất gia,
Lấy
ai để thừa hoan tất hạ ...
-Giống
phượng giống công,
Con
nhà bà giống phượng, giống công.
Liu
điu lại nở ra dòng liu điu ...
-Giải
kiếp giải kiếp,
Cả
gan thật cả gan.
May
con tao sực tỉnh giấc vàng,
Ðỉnh
đình đinh nữa còn gì mà chẳng chết ...
(Quan âm Thị Kính).
--Ðiên
điên dại dại,
Dại
dại điên điên,
Roi
này chi quất rẽ duyên cùng chàng !
(Kim
Nhan)
-Ơïi
anh ơi ! Anh ngồi xuống đây cho tôi than thở đôi lời.
Kể
từ khi thiếp tới cửa chàng,
Lạng
bạc phân vàng, một chữ bẻ làm đôi nỏ có ...
Tới
cái cơn bây giờ:
Anh
có phòng này anh khuây phòng nọ,
Anh
bỏ mẹ con tôi bơ vơ góc bể, chân trời ...
(Tuần
Ty - Ðào Huế)
4.
Hề chèo
Hề
chèo đã có lịch sử của mình. Chèo là nghệ thuật tổng hợp
của nhiều hình thức trò, trong đó hề dựa vững chắc trên cơ
sở trò nhại để mua vui. Hề là bộ phận hầu như thoát ly mạch
truyện, về mặt biểu diễn, là hình thức ứng diễn. Ở hề chèo
thường có tiếng đế thay cho sự giao lưu nhân vật. Những vai
hề thường gặp: hề mồi, hề gậy, hề đồng.
-Ðây
là cái ngũ nghè.
(đế)
-Ngũ nghè là thế nào ?
-Ngũ
nghè là năm miếu, là niêu mắm.
(Lưu
Bình Dương Lễ).
-Mẹ
Mõ: Mời
cụ ra ăn khoán cô Mầu. Cô ấy chửa ra.
-Ðồ
điếc: Ồ,
nó chửa ra thì ta hẳng về đã hử !
Nhà
sư:
-Trình lạy làng dẹp trận lôi đình ...
Cụ
Thầy: -Này
chú sư kia, chú định lôi cái đình làng tôi đi đâu hử ?
(Quan
âm Thị Kính)).
-Tôi
gặp hai ba chị con gái, chị
em thấy tôi, tất hữu ý tứ.
(đế)
-Ý tứ làm sao ?
-Aïi
chà, cô thì nấp, cô thì nom, cô thì quăng cái này, ném cái nọ.
(đế)
-Quăng tiền quăng bạc à ?
-Làm
gì có tiền bạc ? các cô ấy thích quá, cầm hòn đá ném toạc môi
tôi ra .
.. Âúy thế mà các chị em phải lòng tôi...
(Cu
Sứt).
IV.
Các lớp chính vở chèo Quan âm Thị Kính
1.
Giáo đầu: giới thiệu tóm tắt nội dung tích truyện
và triết lý của vở diễn.
2.
Thiện Sĩ đến nhà Mãng ông để hỏi vợ.
3.
Thiện Sĩ ngồi học bên cạnh vợ đang ngồi khâu vá. Thị Kính
cắt chiếc râu mọc ngược của Thiện Sĩ, bị Sùng bà kết tội
giết chồng.
4.
Sùng bà bắt chồng là Sùng ông đi gọi Mãng ông đến trả
Thị Kính và đuôíi Thị Kính ra khỏi nhà.
5.
Thị Kính cải dạng nam trang đi tu chùa Vân Tự với pháp
danh là tiểu Kính Tâm.
6.
Thị Mầu lên chùa ve vãn tiểu Kính Tâm.
7.
Thị Mầu tư thông với anh Nô, người ở trong gia đình bị
Phú ông bắt được tại nhà.
8.
Họp làng bắt khoán xử án hoang thai. Thị Mầu khai cho tiểu
Kính Tâm. Tiểu Kính Tâm bị đánh một roi và nhà chùa phải nộp
tiền khoán cho làng.
9.
Thị Mầu mang đứa con hoang đến cửa Tam quan giao cho Tiểu Kính.
Tiểu Kính đi giáo sữa nuôi con.
10.
Tiểu Kính kiệt sức viết thư buộc vào tràng áo con và
chết. Nhà chùa và dân biết rõ sự thật, lập đàn làm lễ cầu
siêu, giải oan cho Thị Kính.