CHƯƠNG
1 : CÁC
THỂ LOẠI VĂN VẦN DÂN GIAN
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VÈ |
1.
Khái niệm
Trong
loại tự sự dân gian Việt Nam, chủ yếu có truyện và vè.
Truyện dân gian có lối kể bằng văn xuôi, có thể là văn vần. Còn
vè bao giờ cũng là văn vần.
Trong
Ðại Nam quốc âm tự vị, vè là chuyện khen chê có ca vần, và
việc sáng tác vè là đặt chuyện khen chê có ca vần. Ðịnh nghĩa
này còn đơn giản, nhưng đã nêu được những đặc trưng cơ
bản của vè.
Nếu
ca dao là từ Hán Việt, thì vè là một từ thuần Việt. Vè là
một thuật ngữ văn học dân gian có liên quan với từ vè trong
vần vè. Vè là thể loại tự sự dân gian bằng văn vần, có cơ
sở từ lối nói vần vè của nhân dân, chủ yếu nhằm phản ánh
kịp thời và cụ thể những chuyện về người thật, việc thật
ở từng địa phương, những sự kiện có ý nghĩa trong đời
sống nhân dân.
Ở
vè, việc xác định thể loại một số tác phẩm văn vần có
phải là vè hay không, hoặc hiện tượng gọi vè lục bát là thơ
là một vấn đề cần quan tâm, mặc dù việc phân định cũng không
phức tạp.
Về
tiến trình phát triển, vè có từ bao giờ chưa thể khẳng định
dứt khoát. Có thể vè đã manh nha từ trước, nhưng chỉ phát
triển thành thể loại lớn từ thế kỷ XVI, đặc biệt là thế
kỷ VXII về sau, đáp ứng nhu cầu bức thiết phản ánh thực tại
xã hội một cách khẩn trương, nhanh gọn và sắc bén. Ðại thể,
vè đã nảy sinh chủ yếu trong thời kỳ phong kiến,
phát triển nhất trong thời kỳ cận đại ở các thế kỷ XVIII,
XIX, XX. Sự xuất hiện của vè là một bước tiến mới của văn
tự sự dân gian. Vè xuất hiện để kể chuyện theo cách có vần
có nhịp, cùng với lối kể truyện bằng văn xuôi đáp ứng đầy
đủ hơn việc biểu hiện nội dung các vấn đề xã hội nhân dân
muốn nêu lên.
2.
Ðặc điểm
Tính
địa phương
Vè
phản ánh hiện thực ở từng địa phương nhất định, bộc lộ
rõ thái độ của người dân địa phương trước những sự
việc, sự kiện đó. Phạm vi những người quan tâm đến sự
kiện được vè ghi lại, làn sóng dư luận về sự kiện ấy, sự
lưu truyền bài vè đều mang tính địa phương rõ nét.
Có
những bài vè ghi lại những sự việc, nói về nhân vật ở một
địa phương nhất định, nhưng do tính chất tiêu biểu của sự
việc, sự kiện, nhất là những sự kiện về lịch sử và nhân
vật lịch sử, cho nên nó có thể phổ biến rộng rãi ở những
địa phương khác, có khi ở phạm vi toàn quốc. Song, đặc điểm
tiêu biểu của vè vẫn là tính chất địa phương.
Vè Cầu Ngói
Chợ Liễu, Vè anh Nghị lấy o Hương, Vè Năm Chơi, Vè Quản Hớn
...
Tính
thời sự
Vè
mang tính thời sự rõ nét. Các sự kiện trong quá khứ ít được
vè quan tâm. Vè xuất hiện tức thời, nắm bắt nhạy bén sự
việc, sự kiện, ghi nhanh, rồi truyền đi để gây dư luận.
Vè
thách cưới, Vè bão năm Tỵ, Vè sai đạo, Vè thầy Thông Chánh ...
Vè
có vận mệnh ngắn ngủi. Phần lớn các bài vè xuất hiện để
đáp ứng việc phản ánh dư luận quần chúng trong một thời điểm
nhất định, ở một địa phương nhất định. Thông thường người
ta thường quên đi bài vè khi sự việc được phản ánh mất đi
ý nghĩa thời sự. Thay vào đó là những bài vè mới hướng về
những sự kiện mới.
Một
đặc điểm khác, vè không kể chuyện theo lối bàng quan mà bộc
lộ thái độ của nhân dân trước sự việc được phản ánh. Nhân
dân chế giễu tệ nạn thách cưới, thói lười nhác, khoác lác, căm
ghét bọn quan lại đục khoét mặc dân tình khốn khổ, ta thán
về nạn thuế khóa, phu phen, tạp dịch nặng nề, mặt khác ca
tụng những thành tích xây dựng làng xã, ca ngợi những người
anh hùng ... Vì vậy, vè mang tính khuynh hướng rõ rệt. Vè có nét
giống phóng sự, ký sự, bút ký trong văn học.
II. PHÂN LOẠI VÀ NỘI DUNG VÈ |
Theo tiêu chí thể thơ, có thể chia vè thành các loại: vè
lục bát, vè nói lối...
Theo tiêu chí đề tài, nội dung phản ánh, có thể phân vè
thành 3 tiểu loại.
1.
Vè kể chuyện về loài vật, cây trái, sự vật
Ðó
là những bài vè kể về các loại thổ sản, các loài vật có
trong tự nhiên, những sự vật hiện tượng quen thuộc trong đời
sống mà người kể muốn thể hiện sự hiểu biết, hoặc muốn
giới thiệu về miền đất.
Vè
chim chóc, Vè trái cây,Vè cá, Vè rau, Vè các thứ lúa ...
-Nghe
vẻ nghe ve,
Nghe
vè chim chóc.
Hay
moi hay móc,
Là
con thằng chài.
Lông
lá thật dài,
Là
con chim phướn.
Rành
cả bốn hướng,
Là
con bồ câu.
Giống
lặn thật sâu,
Là
con cồng cộc ...
(Vè
chim chóc).
Những
bài vè về tôm cá rất phong phú:
-Ðầu
lớn chôm bôm,
Là
con tôm tít.
Bắt
người ăn thịt,
Là
con tôm hùm.
Ăn
ở bụi lùm,
Là
con tôm cỏ.
Bắt
bỏ vào trỏ,
Là
con tôm lươn.
Gánh
đất lấp đường,
Là
con tôm đất.
Vô
chùa lạy phật,
Là
con tôm tu ...
(Vè
cá tôm).
Ðặc
sắc phải kể đến vè rắn:
-...Ðựng
đầy một thúng,
Là
rắn cạp nia.
Ăn
rồi ngậm nghe,
Hổ
hành nấu cháo.
Dữ
mà nhỏ xíu,
Vốn
thiệt rắn trung ...
(Vè
rắn U Minh)
Ngoài
ra những bài Vè nói ngược, Vè nói láo ... cũng thể hiện những
ý nghĩa rất thiết thực.
-...
Ngựa đua dưới nước,
Tàu
chạy trên đồng.
Bảy
mươi có chồng,
Mười
lăm ở giá.
Ăn
trầu bằng cán,
Hút
thuốc bằng vôi.
Giã
gạo bằng nồi,
Nấu
cơm bằng cối.
Vác
đá dồn gối,
Ðắp
nhà bằng bông,
Làm
ruộng đi không,
Ðánh
bài cào vác cuốc...
(Vè
nói ngược).
-...Nhà
tôi có một cái nồi,
Ðể
ba táo gạo mà nồi còn lưng.
Nhà
tôi có một bụi gừng,
Nhổ
lên đi bán độ chừng bốn xe.
Nhà
tôi có một cây me,
Hái
vô một trái bằng hũ ghè đựng tương ...
(Vè
nói láo).
2.
Vè thế sự (vè sinh hoạt xã
hội)
Khái
niệm vè thế sự được hiểu bao hàm ý nghĩa vè sinh hoạt. Ở
loại vè này, bên cạnh tính thời sự, tính địa phương rất
nổi bật.
Vè
thế sự miêu tả cụ thể, sinh động, trực tiếp đời sống nhân
dân. Vè xuất hiện do nhu cầu phản ánh hiện thực một cách
nhạy bén và kịp thời. Tính chất người thật, việc thật thể
hiện rõ rệt trong các bài vè lấy đề tài ở các sự kiện thông
thường của đời sống.
Vè
thế sự có xu hướng chung là trào phúng. Nhiều bài vè đả kích
những hành vi phương hại đến phong tục tập quán, đạo đức nhân
dân, những hiện tượng không bình thường, những tệ trạng xã
hội.
Vè
thách cưới, Vè chửa hoang, Vè uống rượu, Vè nói dóc, Vè đánh
bạc, Vè đi bối ...
-Thôi
thôi ví lỡ ra rồi,
Bồng
thử ra ngồi coi thử giống ai...
(Vè
chửa hoang).
Vè
ghi nhận thực trạng đời sống nhân dân. Loại vè có giá trị
hiện thực hơn cả là những bài đả kích ách thống trị của
bọn thực dân, phong kiến. Từ những sự kiện cụ thể trong đời
sống sinh hoạt, nhân dân đã thấy được những nguyên nhân xã
hội dẫn đến cuộc sống khốn cùng. Nhìn chung, vè đã miêu tả
rất sinh động cuộc sống nhân dân, phản ánh hiện thực xã hội
nước ta dưới ách thống trị thực dân phong kiến.
Vè
bão năm Tỵ, Vè Cầu Ngói, chợ Liễu,
Vè thầy cai, Vè đi phu Cửa Rào...
Ở
Vè Cầu Ngói, Chợ Liễu, đối tượng đả kích là bọn quan chức
địa phương:
-Kẻ
đêm sẩy hầm,
Người
ngày sẩy hố,
Gánh
đổ gồng nghiêng ...
...
Làng nước xóm giềng
Than
lan khổ sở ...
Tiền
công thu vào,
Lúa
công góp lại,
Nhưng
đường sá hư,
Chỉ
là dân sửa,
Nhưng
cầu giếng lở,
Chỉ
là dân xây;
Việc
chi nỏ hay,
Chỉ
lo cúng tế,
Tranh
giành xôi thịt ...
Miệng
em vú lấp,
Bị
chị bánh đầy,
Sống
mặc, chết mặc ! .
Ở
bài vè Vua quan lại về tổn hại đến dân, tên chánh tổng Phù Lưu
trở thành đối tượng đả kích trực diện bên cạnh bọn vua
quan chuyên sách nhiễu nhân dân.
...Bây
giờ hàng tổng đấp đê,
Vua
quan lại về làm hại đến dân.
Quan
trên ích lợi nhiều phần,
Ðể
cho dân sự khổ thân thế này.
Một
đoàn áo thụng đến đây,
Tập
chào, tập vái, đến ngày vua ra.
Ô
tô thì đậu ngã ba,
Dân
sự thì đứng đàng xa mà nhìn.
Quan
bắt gánh đá Rú Bìn,
Rải
một mạch liền: Tà Hạ về ta.
Roi
song nó đập tuốt da,
Nó
vô tận nhà nó bắt liên miên.
Bờ
đường bắt cắm cờ liền,
Quan
hàn thì được ngân tiền vua ban.
Bài
vè Cải dịch y phục thể hiện thái độ bất mãn của người dân
trước lệnh vua Minh Mạng:
Bước
sang năm mới bình yên,
Chiếu
vua hạ truyền:
Cải
dịch y phục,
Quan
huyện đã giục,
Lý
trưởng, mục, tiên.
Lệnh
vua đã truyền.
Bắt
dân mặc cả.
...
Mai phiên chợ Trai,
Phải
mượn quần chồng.
Ðã
cực trong lòng,
Lại
thêm xấu hổ.
Không
đòi mô chộ,
Ăn
mặc ra ri.
Anh
bước chân ra đi,
Không
quần mà có áo ...
Bên
cạnh đó là những bài vè đả kích ách thống trị của thực dân:
Từ
ngày có mặt thằng Tây,
Phu
phen tạp dịch ngày rày khốn thay.
Kẻ
bắt giữa ruộng cày,
Người
không cho sắm sửa.
Chồng
yếu, bắt vợ,
Cha yếu, con đi,
Ruộng
cày bỏ trắng ...
(Vè
đi phu Cửa Rào).
Có
những bài vè có tính chất khái quát nói về một loại sự
việc, một loại người nhất định trong xã hội có thể phổ
biến ở nhiều địa phương. Loại vè này nói về nỗi khổ của
tầng lớp dân nghèo. Ở những bài vè này tính chất trữ tình tăng
lên do lối phản ánh thực tại ít nhiều có tính chất khái quát.
...
Thân tôi đi sớm về trưa,
Vác
cày vác bừa đã mỏi hai vai.
Chú
thuê quan một tôi nài quan hai,
Tôi
ở với ngài đã chẵn hai năm.
Chú
thím ăn rồi bắt tôi đi nằm,
Bắt
tôi xay lúa tối tăm trong nhà.
Cái
niêu bằng cái trứng gà,
Bỏ
vô ba hột thảm là chú ơi ...
(Vè
chăn trâu).
...
Chửa sáng dắt trâu đi cày,
Dọn
bờ cuốc gốc nửa ngày chưa tha:
Bờ
lớn con hãy cuốc ra,
Bờ
bé đắp lại cho bà con ơi !.
Việc
làm khắp chốn cùng nơi,
Giục
đi cắt cỏ vai tôi đã mòn !
...
Về nhà xay đỗ, cạo khoai,
Xay
thóc gĩa gạo, canh hai chưa nằm.
Gà
kia mày gáy chiêu đăm,
Ðể
chủ tao nằm, tao ngủ chút nao !
(Vè
đi ở).
Ngoài
ra có thể kể đến nhiều bài vè kể về những cảnh ngộ khác
như: Vè chồng chung, Vè vạn cấy, Vè đi phu...
3.
Vè lịch sử
Ở
vè lịch sử, tính thời sự nổi bật.
Có
sự khác biệt giữa sử ca và vè lịch sử. Vè lịch sử thường
hòa quyện 2 yếu tố: sự chân thật lịch sử và sự hư cấu
thần kỳ.
Vè
lịch sử là lịch sử không thành văn của nhân dân. Vè lịch sử
gồm 2 mảng lớn.
Ðề
tài nông dân khởi nghĩa
Từ
thế kỷ XVIII trở đi, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân không
ngừng nổ ra khắp nơi trong nước, lôi cuốn hàng vạn người. Hình
ảnh về những người anh hùng nông dân và những cao trào ấy đã
được ghi nhận ở nhiều bài vè. Nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân
rất nổi tiếng như Quận He, Hoàng Công Chất ... có thể ức đoán
đã từng là đề tài của nhiều bài vè. Nhưng do nhược điểm
của công tác sưu tầm văn học dân gian nói chung, nhiều bài vè
gắn với các phong trào nông dân khởi nghĩa thế kỷ XVII không lưu
giữ được.
Tiêu
biểu, Vè chàng Lía được lưu hành rộng rãi ở miền Trung và
miền Nam Trung Bộ. Lía là một thủ lĩnh nông dân hồi cuối thế
kỷ XVIII, đã nổi lên chống lại chúa Nguyễn.
Thiệt
là lũ chó nhà đây,
Hơn
người nghèo khổ ta nay quá chừng.
Bồi
hồi Lía tức tràn hông,
Ngẫm
thân đành phải dằn lòng làm thinh.
Căn
giận trước áp bức, bất công, Lía đi cướp phá nhà giàu, giúp
hộ dân nghèo:
Lía
ta tâm tánh lạ sao,
Ghét
phường phú hộ đất đào ném ra.
Những
người nghèo khó đâu ta,
Thì
Lía xót phận rất là yêu thương.
Kẻ
nghèo rủi gặp tai ương,
Hễ
Lía hay biết, dễ thường bỏ đâu.
Giúp
cho tiền bạc tiếc nào,
Cho
nên nhiều kẻ xiết bao cảm tình.
Vè chàng Lía cũng
bộc lộ những nhược điểm của nhân vật như tính manh động,
hiếu sát, nhưng nét chủ đạo là ngợi khen tính cách anh hùng, hào
hiệp của Lía:
...
Lừng danh chàng Lía tài cao,
Thâu
được thành nọ tiếng hào đồn ran.
Vỗ
về chiêu dụ trăm dân,
Trước
sau an ổn mười phần làm ăn ...
...
Tháng ngày vây chặt tứ vi,
Non
cao, thủ hiểm khó hòng sự chi !
Lương
tiền hao tổn trào nghi,
Vua
đành truyền lệnh tạm thì bãi binh ...
Về
phong trào Tây Sơn, có bài Vè Bà Thiếu Phó kể chuyện bà Bùi
Thị Xuân.
Về
phong trào nông dân khởi nghĩa thế kỷ XIX, ở miền Bắc phổ
biến nhất là Vè vợ ba Cai Vàng.
Cai Vàng tên thật là Nguyễn Văn Thịnh, tổng Hoàng Vân (tổng Vàng,
tỉnh Bắc Ninh), là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nông dân Bắc Ninh
(1862) dưới triều Tự Ðức. Bài vè đề cao những chiến công
của Cai Vàng, đặc biệt kể về hành trạng của người vợ thứ
ba của ông là Lê Thị Miên.
...
Truyền quân vây đánh ra tay,
Các
quan mới biết giặc nay đàn bà.
...
Cô Quận sống thác cũng chơi,
Dong gươm, bắt mác xem trời bằng vung.
Bắt
được bảy ngọn mác thông,
Phải
quan chánh lĩnh người cùng thác đi.
Quan
phó phải đạn một khi,
Quan phủ bỏ ngựa tức thì lui ra ...
...
Cai vàng trong ấy đánh ra,
Theo
hiệu định trước, cô Ba đánh
vào.
Quân
trào táo loạn lao đao,
Bốn
bề súng nổ, xôn xao khắp đồng.
Ðánh
nhau chẵn ba ngày ròng,
Súng
nổ đì đùng như thể pháo rang.
Ðạn
bắn như rải cát vàng,
Các
quan cuốn gói tếch chuồn Bắc Ninh...
Vè
vợ ba Cai Vàng phổ biến rất rộng rãi, dẫn tới hiện tượng có
nhiều đoạn giống với Vè Ðề Thám, phần kể về chiến công
vợ ba Ðề Thám, một bài vè lịch sử thuật lại phong trào nông
dân Yên Thế, Bắc Giang chống Pháp.
Ðề
tài đấu tranh chống Pháp
Trong giai đoạn lịch sử bi tráng, sự nghiệp kháng chiếu
chống Pháp hào hùng của nhân dân được khắc họa đậm nét
bằng những bài vè lịch sử.
Vè
thất thủ kinh đô dài 1850 câu, kể những sự việc xảy ra từ
thất thủ Thuận
An (1885) đến khi vua Thành Thái bị giặc đày sang đảo Rê-uy-ni-ông
(1907). Bài vè phản ánh một giai đoạn lịch sử ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống nhân dân, nói lên tinh thần yêu nước,
quyết tâm kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bấy giờ. Bài
vè kể rõ sự biến ở kinh thành, đặc biệt, dựng lại khá trung
thực hình ảnh một số nhân vật lịch sử, nổi bật là Tôn
Thất Thuyết.
-...
Từ ngày thất thủ kinh đô,
Bốn
phương xiêu vẹo hán Hồ khổ thay.
-Nước
ta quan tướng anh hùng
Bách quan văn võ cũng không ai tày.
Người
có ngọc vẹt cầm tay,
Ðạn
vàng Tây bắn ba ngày không nao.
Tài
hay văn võ lược thao,
Khí khái nhân địa ra vào rất thông.
Bốn
bề cự chiến giao công,
Tây phiên nói: thực anh hùng nước Nam ...
Ngoài
ra còn nhiều bài vè nổi tiếng như Ba Ðình chống Pháp, Vè Quan
Ðình, Vè Ðề Thám, Vè tán
Thuật,Vè Trương Ðịnh... gắn với tên tuổi những người anh
hùng lãnh đạo nhân dân đánh giặc cứu nước.
Vè
Ba Ðình chống Pháp kể về cuộc khởi nghĩa ở Ba Ðình, một cứ
điểm chống
Pháp của nghĩa quân Thanh Hóa trong thời kỳ Cần Vương. Phạm Bành,
Ðinh Công Tráng, Hoàng Bật Ðạt ... đã lãnh đạo nghĩa quân
suốt thời gian từ 1885 đến 1888. Nghĩa quân đã đánh Pháp với
tinh thần chiếu đấu kiên cường:
... Nước nhà Tây đã chiếm rồi,
Chư
quân chư tướng ắt thời theo ta.
Kéo
quân về đất Thanh Hoa,
Tìm
nơi hiểm yếu để ta lập đồn.
...
Kéo quân đến đóng Ba Ðình,
Ðào
tường, đắp ụ can thành tứ vi.
Tán
Hoàng đóng chốt Mỹ Khê,
Ðốc
Bành Mậu Thịnh đi về có ta.
Lĩnh
Toại đóng chốt thứ ba,
Tại
nghè Thượng Thọ để mà phòng không.
Ra
uy thiết bị vừa xong,
Ngày
sáu tháng Chạp giao công tức thì ...
Vè Quan Ðình kể
về Phan Ðình Phùng người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống
Pháp ở Hương Khê (Hà Tĩnh) (1877). Bọn thực dân đã dùng nhiều
thủ đoạn mua chuộc, đàn áp, nhưng vẫn không khuất phục được
ông.
-... Ðến năm Ất Dậu vừa hay,
Trấn
binh nở súng giặc Tây chiếm thành.
Tan
hoang phố xa miếu đình,
Quân
gia vất vưởng dân tình bơ vơ.
Cháy
nhà mặt chuột mới trơ,
Quận
Tường sớm đã thừa cơ đầu hàng.
-...
Quan Ðình tâm viễn chí cường,
Ðêm
đêm trằn trọc tính đường thế công.
Bảo
cùng Cao Thắng đổng nhung,
Quân
Tây nó có thần công rất mầu.
Súng
ta có đọ được đâu,
Làm
sao chế được mới hầu hơn thua.
Khen
thay Cao Thắng tài to,
Lấy
ngay súng giặc về cho lò rèn.
...
Súng ta chế được vừa xong,
Ðem
ra mà bắn nức lòng lắm thay.
...
Hồng Lam mặc sức tung hoành,
Ðánh
đồn tỉnh Nghệ, phá thành Nam giang.
Bắt
sống tuần phủ Ðinh Quang,
Giết
Trương Quang Ngọc hết đàng theo Tây.
-...
Vụ Quang huyết chiến một khi,
Mấy
nghìn lính Pháp chết thì chật sông.
-Trong
quân chưa kịp hạ công,
Quan
Ðình phút đã xe rồng lên tiên ...
Ở
bài vè Ðề Thám, đoạn nói đến vợ ba Ðề Thám thật hào hùng:
-Ðì đùng súng bắn rì rào,
Bà
Ba lúc ấy thị hào ra tay.
Bắn
chết ngay bốn thằng Tây,
Mấy
thằng đội trốn thoát rày chạy ra.
Vè Tán Thuật
kể về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy của Nguyễn Thiện Thuật ở
Hải Hưng
(1885). Ðây là cuộc khởi nghĩa lớn nhất ở đồng bằng Bác Bộ
bấy giờ. Với chiến thuật du kích, nghĩa quân Tán Thuật đã làm
giặc Pháp nhiều phen khốn đốn, khiếp sợ:
Pháp kia đã chiếm Nam Kỳ,
Hỏi rằng Trung Bắc dễ gì được yên.
Quân Tán Thuật tài kiêm văn võ,
Vốn xưa kia cùng Ðốc bộ Hoàng.
Kinh
thiên nhất trụ chi gian,
Sơn Tây một dải ngang tàng lưỡi gươm.
Ðau nỗi nước gặp cơn binh hỏa,
Giận triều đình, thương cả lê dân.
Ðường
đường trút bỏ đai cân,
Hội binh phát thệ trừ quân bạo cường.
Ðất Bãi Sậy lừng danh quan Tán,
Huyện Văn Giang tỏ rạng hào quang.
Một
vùng sậy mọc lau lan,
Nơi bùn sâu có rồng vàng
ở trong.
Ðường trăm nẻo giao thông thủy bộ,
Hưng Yên nay cũng thuở Lương Sơn,
Anh
hùng mài một lưỡi gươm,
Những loài giá áo túi cơm sá gì.
Khắp mười tỉnh Bắc kỳ sĩ thứ,
Bất đế Tần mấy chữ không
nao,
Một lòng theo ngọn cờ đào,
Thề
cùng bạch quỷ có tao không mày !
Vè Trương Ðịnh
kể về người anh hùng chống Pháp đất Gò Công, Nam Bộ nổi
danh với đám lá tối trời:
...
Trương Công hùng lược thao tài,
Quyết
đem binh mã thử vài trận chơi.
Nghĩa thanh sấm động nhất trời,
Biết
bao hào kiệt đồng lời thệ minh ...
Bên
cạnh đó, Vè Khâm sai xuất hiện ở Quảng Nam khoảng năm 1886,
kể việc triều đình Ðồng Khánh phái khâm sai Nguyễn Thân hợp
với quân Pháp đánh dẹp phong trào yêu nước kháng Pháp do Nguyễn
Hiệu lãnh đạo. Bài vè vạch trần bộ mặt thật của đạo binh
khâm sai.
-...
Danh vi trấp bảo
Vụ dĩ an dân (!)
Khâm
sai đại thần,
Kéo
về Ðà Nẵng.
-...
Tướng chi tướng dở,
Vị
luyện quân tình,
Chẳng
có Tây binh,
E
không khỏi chết.
...
Làm chẳng ra chi,
Lại
thêm ăn bậy,
Lũ
quân đi lấy,
Các
tướng về chia.
...
cái chi cũng xách,
Cái
quần đã rách,
Cái
aó đã xơ,
Cũng
giành mà quơ,
Huống
chi cái khá !
Thậm
vi khả bỉ,
Quân
lệnh khâm sai !
Nhiều
bài vè không ngần ngại gọi thẳng đích danh bọn mãi quốc cầu
vinh.
Nhìn
chung, vè chống Pháp là bộ phận tiêu biểu của vè lịch sử hòa
vào dòng văn học yêu nước chống Pháp của dân tộc.
III. ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA VÈ |
Vè có giá trị nghệ thuật khá độc đáo. Phương pháp
biểu hiện của vè gắn với mục đích và đặc điểm thể
loại. Vè xuất hiện nhằm đáp ứng sự phản ánh tức thời một
sự việc, sự kiện. Giá trị trường tồn của vè có ý nghĩa khác
với các thể loại khác. Bên cạnh đó, các sáng tác văn học dân
gian nói chung sẽ trở thành hoàn thiện hơn qua quá trình sử
dụng, lưu truyền. Phần lớn các bài vè lại có vận mệnh ngắn
ngủi, thời gian cần thiết để đạt tới một hình thức hoàn
chỉnh, trau chuốt ít có được.
2.
Tính đích danh xác thực
Thể
hiện ở tên bài vè, nội dung được phản ánh trong vè.
...
Có một thầy cai ở làng Tuyên Thạnh,
Cửa
nhà huê cảnh ở tại Bắc Chiên,
Có
hai vợ hiền mà hư con mắt.
...
Thầy xét thầy tra, một ngày trăm ba, cùng là trăm rưỡi.
Thầy
mắng thầy chưởi, thầy chẳng có thương,
Xuồng
cá xuồng lươn, tàu cau, dừa, bưởi,
Xuồng
lớn cắc rưỡi, xuồng nhỏ cắc hai,
Trong
mấy tháng nay, thầy Cai tiền bộn ...
(Vè
thầy cai).
3.
Thể thơ
Thể
vãn 3, 4, 5 tiếng một câu nhanh gọn, sắc bén thích hợp yêu cầu
tự sự. Thể lục bát dàn trải thích hợp yêu cầu trữ tình. Có
bài vè kết hợp cả hai thể thơ.
-.
.. Thiên hạ ăn tết,
Cũng
đã qua rồi,
Bước
qua năm Mùi,
Tây
kia lấn nước ...
(Vè
Tây cướp nước).
-
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe
vè giữ trâu,
Ra
đứng đầu cầu khóc mẹ van cha ...
(Vè
giữ trâu).
4.
Yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình
Vè
chủ yếu tự sự. Có khi kết hợp yếu tố trữ tình theo yêu
cầu biểu hiện nội dung bài vè.
...
Ðồng Nai bốn phía mây đen,
Biên
Hòa, Gia Ðịnh nỗi niềm xiết bao.
Kìa
kìa những đấng anh hào,
Gò
Công, Cần Giuộc trăng sao tỏ ngời.
Lòng
son rạng vẻ đất trời,
Thệ
cùng nghịch lỗ ở đời chẳng chung.
(Vè
trước họa giặc Pháp).
5.
Ngôn ngữ
Ngôn
ngữ vè mộc mạc, đơn giản, không trau chuốt, gọt dũa.
Một
số công thức mở đầu:
-
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe
vè ...
-
Hai bên cô bác,
Lẳng
lặng mà nghe ...
-
Ngồi buồn lấy viết đặt chơi ...
TỤC
NGỮ |
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỤC NGỮ |
1.
Khái niệm
Khối lượng tục ngữ Việt Nam do nhân dân lao động sáng
tạo và lưu truyền, tích lũy từ lâu đời rất phong phú. Tục
ngữ cung cấp cho lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân, cho ngôn
ngữ văn chương một hình thức biểu hiện súc tích, có tính khái
quát cao.
Tục
ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm,
tri thức của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn,
súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền.
2.
Phân biệt tục ngữ với những hình thức gần với tục
ngữ
Với
phương ngôn, ngạn ngữ
Phương ngôn là tục ngữ địa phương, phạm vi nhỏ hơn
tục ngữ.
Ngạn ngữ là lời nói lưu hành từ xưa, chủ yếu là những
lời hay, ý đẹp được truyền tụng.
Với
thành ngữ
Tục ngữ và thành ngữ có quan hệ nhau rất chặt chẽ, vì
vậy trong hoạt động nghiên cứu, sưu tập trước ñđây
có xu hướng gộp chung, không có sự phân biệt
giữa chúng.
Nguyễn
Văn Tố trong Tục ngữ ta đối với tục ngữ Tàu và tục ngữ Tây:
TuÛc ngữ là câu nói quen trong thế tục, nhiều câu nghĩa lý thâm
thúy, ý tứ sâu xa.
Dương
Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu:Một câu tục ngữ tự
nó phải có ý nghĩa, hoặc khuyên răn, hoặc chỉ bảo điều gì ,
còn thành ngữ chỉ là lời nói có sẵn để ta tiện dùng mà
diễn đạt một ý, một trạng thái gì cho có màu mè
Vũ
Ngọc Phan trong Tục ngữ ca dao dân ca: Tục ngữ là một câu tự nó
diễn đạt trọn vẹn một ý, một nhận xét, một kinh nghiệm,
một luân lý, một công lý, có khi là một sự phê phán. Thành
ngữ là một bộ phận câu có sẵn mà nhiều người quen dùng nhưng
tự riêng nó không diễn được một ý trọn vẹn.
Thành
ngữ là hoa tục ngữ là
quả.
-
Nước chảy đá mòn.
-
Sông
cạn, đá mòn.
-
Tay
làm hàm nhai.
-
Tay
làm hàm nhai, tay quai miệng trễ.
Với
ca dao
Nhìn
chung, sự khác biệt giữa hai thể loại:
Ca
dao thiên về tình cảm, phô diễn tâm tình một cách chủ quan.
Tục
ngữ thiên về lý trí, đúc kết kinh nghiệm một cách khách quan.
Có
những trường hợp khó phân biệt ranh giới.
-
Ai ơi chẳng chóng thì chầy,
Có
công mài sắt có ngày nên kim.
-
Lời nói chẳng mất tiền mua,
Lựa
lời mà nói cho vừa lòng nhau.
3.
Nguồn gốc và sự phát triển của tục ngữ
Gorki
trong Bàn về nghệ thuật: Nghệ thuật ngôn ngữ sinh ra do quá trình
lao động của con người từ xưa, là xu hướng con người muốn đúc
kết kinh nghiệm lao động vào một hình thức ngôn ngữ dễ nhớ và
bám chặt vào ký ức - những hình thức thơ hai chữ, tục ngữ,
truyền ngôn là những khẩu hiệu lao động thời cổ .
Tục
ngữ được ức đoán đã có từ thời cổ, nhằm đúc kết những
kinh nghiệm, những điều quan sát đưọc trong quá trình lao động,
những chân lý thông thường ... Trong xã hội có giai cấp, tục
ngữ được nhân dân dùng như một công cụ để phát biểu những
nhận thức về các kinh nghiệm thực tiễn, các hiện tượng lịch
sữ xã hội. Nhân dân lao động dùng tục ngữ thể hiện thế
giới quan và nhân sinh quan của mình. Những kinh nghiệm của tục
ngữ rút ra trong quá trình đấu tranh thiên nhiên và xã hội, được
thể nghiệm trong thực tiễn, đã trở thành những chân lý có tính
cách phổ biến, được nhân dân công nhận và sử dụng.
Tục
ngữ hình thành từ nhiều nguồn:
-
Từ cuộc sống thực tiễn, trong đời sống sản xuất và đấu
tranh của nhân dân, do nhân dân trực tiếp sáng tác.
-
Ðược tách ra từ tác phẩm văn học dân gian hoặc ngược lại.
-
Ðược rút ra tác phẩm văn học bằng con đường dân gian hóa
những lời hay ý đẹp.
-
Từ sự vay mượn nước ngoài.
4.
Tình hình nghiên cứu tục ngữ
Ðầu tiên đó là các bản ghi chép bằng chữ Nôm vào thế
kỷ XIX như Nam phong ngữ ngạn thi
của Ðình Thái, Ðại Nam Quốc Túy của Ngô Giáp Ðậu ..., bản
ghi chữ quốc ngữ như Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn của Huỳnh
Tịnh Của (1897), Tục ngữ cách ngôn của Hàn Thái Dương (1920) ...
Nhũng
năm đầu thế kỷ XX, bên cạnh những bản ghi bằng chữ quốc
ngữ, còn có một số bản sưu tập, chú thích nghĩa và dịch tục
ngữ Việt Nam sang tiếng Pháp như Tục ngữ An Nam dịch sang tiếng
Tây của V. Barbier (Triệu Hoàng Hòa), Ðông Tây ngạn ngữ cách ngôn
của H. Délétie và Nguyễn Xán (1931) ...
Từ trước cách mạng tháng Tám đến nay đã có những công
trình sưu tập và nghiên cứu tục ngữ công phu, có nội dung phong
phú:
Tục
ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc (1942), Tục ngữ dân ca Mường Thanh Hóa của Minh Hiệu sưu tầm (1970), Ca dao, ngạn ngữ Hà
Nội Triều Dương ... sưu tầm biên soạn (1971), Tục ngữ Thái
(1978) ...
Tục
ngữ ca dao dân ca của Vũ Ngọc Phan (1956), Tục ngữ Việt Nam của
Chu Xuân Diên, Lương Văn Ðang, Phương Chi (1975) ...
II. NỘI DUNG TỤC NGỮ |
Tục ngữ phản ánh những nhận định, quan niệm của nhân dân
về lao động, về các hiện tượng lịch sử xã hội, về tư tưởng,
đạo đức ...
1.Phản
ánh những kinh nghiệm về lao động sản xuất
Tục ngữ về lao động sản xuất phản ánh một số nét chính
điều kiện và phương thức lao động của nhân dân, phản ánh đặc
điểm đời sống dân tộc. Những kinh nghiệm về lao động sản
xuất nảy sinh trong quá trình đấu tranh thiên nhiên của nhân dân
lao động được đúc kết trong tục ngữ được phổ biến rộng
rãi, trở thành tri thức khoa học kỹ thuật dân gian.
Trong
quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt, nhân dân tích lũy được
nhiều kinh nghiệm về quy luật diễn biến của thời tiết khí
hậu.
-Bơ
bãi không bằng phải thì.
-Vấy
mại thì mưa, bối bừa thì nắng.
-Mây
thành vừa hanh vừa giá.
Trong
quá trình lao động sản xuất ở các ngành nghề nông nghiệp, ngư
nghiệp, một số nghề thủ công lâu đời, nhân dân cũng đã đúc
kết được rất nhiều kinh nghiệm. Trong đó, những kinh nghiệm
về làm ruộng chiếm đa số.
-Nhất
nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.
Chim
cập cợi, mùa đợi nhau.
-Cơm
quanh rá, mạ quanh bờ.
-Sương
quánh cá thu, sương lu cá thửng.
-Lâu
đêm hơn thêm hồ.
-Nhất
dáng, nhì men, ba chàm, bốn vẽ.
Tục ngữ về lao động sản xuất thể hiện tinh thần sáng
tạo của nhân dân
trong lao động. Song chủ yếu là kinh nghiệm thực tiễn. Nhiều
kinh nghiệm chỉ phản ánh những biểu hiện cụ thể của những
quy luật tự nhiên ở địa phương, từng thời điểm nhất định.
2.
Ghi nhận các hiện tượng lịch sử xã hội
Tục
ngữ nói về các hiện tượng lịch sử xã hội là bộ phận chủ
yếu, phản ánh những tập quán, thị hiếu, cuộc đấu tranh của
nhân dân ...
Một
vài ký ức của thời kỳ lịch sử xa xưa của dân tộc:
-Ăn
lông ở lỗ.
-Con
dại cái mang.
-Năm
cha ba mẹ.
Một số hiện tượng
lịch sử:
-Hăm
mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi.
-Hai
mốt giỗ cha, hai mươi ba giỗ con.
-Lê
tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong.
Tục
ngữ Việt Nam chủ yếu phản ánh những đặc điểm sinh hoạt gia
đình và xã hội, sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân
trong thời phong kiến.
Những
tập quán, phong tục trong đời sống nhân dân:
-Dưa
La, cà Láng, nem Bảng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Ðầm
Sét.
-Lấy
vợ đàn bà, làm nhà hướng Nam
-Mồng
bày hội Khám, mồng tám hội Dâu, mồng chín đâu đâu trở về
hội Dóng.
-Thần
cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề.
Những
nét sinh hoạt của nông thôn Việt Nam thời phong kiến ;
-Phép
vua thua lệ làng.
-Ðất
có lề, quê có thói.
-Một
miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp.
Phản
ánh tổ chức gia đình và những quan điểm thân tộc của nhân dân
ta trong xã hội phong kiến:
-Một
ngưòi làm quan cả họ được nhờ.
-Chết
trẻ còn hơn lấy lẽ.
-Sẩy
cha còn chú, sẩy mẹ bú dì.
Phản
ánh đời sống người lao động và những quan hệ xã hội trong xã
hội phong kiến:
-Lấy
bát mồ hôi đổi bát cơm.
-Tháng
tám đói qua, tháng ba đói chết.
-Bà
chúa đứt tay bằng ăn mày xổ ruột.
-Cá
lớn nuốt cá bé.
-Quan
thấy kiện như kiến thấy mỡ.
-Tức
nướcvỡ bờ.
3.
Thể hiện triết lý dân gian của dân tộc
Tục ngữ phản ánh những kinh nghiệm sống và lối sống
của nhân dân, phản ánh truyền thống tư tưởng và đạo đức
của nhân dân lao động, trong đó bao hàm những tư tưởng chính
trị xã hội và tư tưởng triết học.
Tục ngữ thể hiện chủ nghĩa nhân đạo chân chính của nhân
dân lao động. Tư tưởng này biểu hiện trước hết ở những
quan niệm về con người.
-Người làm ra của, của không làm ra người.
-Một
mặt người hơn mười mặt của.
-Người
sống của còn, người chết của hết.
Biểu
hiện ở thái độ, đánh giá về lao động, cách xét đoán con người
qua lao động.
-Tay
làm hàm nhai, tay quai miệng trễ.
-Hay
làm đầu quang mặt sạch, chẳng hay làm đầu rếch mặt dơ.
-Của
một đồng, công một nén.
Tục
ngữ thể hiện lòng tự hào, ngợi ca đất nước giàu đẹp, con
người tài hoa.
-Thứ
nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến.
-Ăn
Bắc, mặc Kinh.
-Trai
Cầu Vồng, Yên Thế, gái Nội Duệ, Cầu Lim.
-Trai
Hai Huyện, gái miệt vườn.
Nhiều
tục ngữ thể hiện tinh thần đấu tranh của nhân dân lao động
chống áp bức, bóc lột.
-Tuần
hà là cha kẻ cướp.
-Muốn
nói oan, làm quan mà nói.
-Ðược
làm vua, thua làm giặc.
Tinh
thần đạo đức
Tục ngữ phản ánh khá phong phú những đức tính của nhân
dân lao động, thể hiện truyền thống tư tưởng, đạo đức
của nhân dân thông qua những nhận xét, suy gẫm rất sâu sắc về
hiện thực.
-Chớ
thấy sóng cả mà ngả tay chèo.
-Có
công mài sắc có ngày nên kim.
-Ăn
lấy chắc, mặc lấy bền.
-Một
con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ.
-Ðói
cho sạch, rách cho thơm.
-Tốt
gỗ hơn tốt nước sơn.
-Chết trong còn hơn sống đục.
Nhân
dân còn đề cập đến những biểu hiện khác:
-Ðèn nhà ai nấy sáng.
-Giàu
đổi bạn, sang đổi vợ.
-Giàu trọng, khó khinh.
Những
yếu tố triết học thô sơ
Tục
ngữ là những kinh nghiệm của nhân dân trong đời sống thục
tiễn, song, nhiều tục ngữ phản ánh những nhận thức có tính
chất duy vật tự phát.
-Thầy bói nói dựa.
-Có
bột mới gột nên hồ.
-Ở
bầu thì tròn, ở ống thì dài.
-Còn da lông mọc, còn chồi lên cây.
-Ðược
mùa cau, đau mùa lúa.
-Cái sẩy nẩy cái ung.
III. NGHỆ THUẬT TỤC NGỮ |
Những
đặc điểm nghệ thuật của tục ngữ biểu hiện một cách tập
trung những đặc điểm của ngôn ngữ Việt Nam.
1
Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tục ngữ
Giữa
hình thức và nội dung tục ngữ có sự gắn bó chặt chẽ, ở
tục ngữ là hình thức nội dung. Tính chất bền vững của tục
ngữ biểu hiện cả về mặt nội dung lẫn hình thức.
Tục
ngữ có tính đa nghĩa. Một câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa
đen và nghĩa bóng.
-Tre
già, măng mọc.
-Gần
mực thì đen, gần đèn thì sáng.
-Không
có lửa sao có khói.
2.
Hình tượng
Tục
ngữ có tính chất đúc kết, khái quát hóa những nhận xét cụ
thể thành những phương châm, chân lý, xu hướng này thể hiện
bằng ngôn từ đều qua lối tư duy hình tượng, lối nói hình tượng.
Hình tượng của tục ngữ là hình tượng ngữ ngôn. Hình tượng
được xây dựng từ những biện pháp so sánh, nhân hóa, ẩn dụ
...
-Kẻ
cắp gặp bà già.
-Ăn
mày đánh đổ cầu ao.
-Người
sống đống vàng
-Ðũa
mốc mà chòi mâm son.
-Ðồng
vợ đồng chồng, tát biển đông cũng cạn.
3.
Vần điệu và sự hòa đối
Ða
số tục ngữ đều có vần. Gồm 2 loại: vần liền và vần cách.
-Con lên ba cả nhà học nói.
-Chê thằng một chai, lấy thằng hai nậm.
Nhịp
điệu là yếu tố quan trọng trong tục ngữ. Các kiểu ngắt
nhịp: trên yếu tố vần, trên cơ sở vế, trên cơ sở đối ý,
theo tổ chức ngôn ngữ thơ ca ...
-Ðường
đi hay tối, nói dối hay cùng
-Trai
ba mươi tuổi đương xoan.
Gái
ba mươi tuổi đã toan về già.
Sự
hòa đối là yếu tố tạo sự cân đối, nhịp nhàng, kiến trúc
vững chắc cho tục ngữ. Hình
thức đối: đối thanh, đối ý.
-Cơm
treo, mèo nhịn đói..
-Ðược làm vua, thua làm giặc.
4.
Hình thức ngữ pháp
Tục
ngữ có thể có 1 vế, chứa 1 phán đoán.
Tục
ngữ thường gồm có 2 vế, chứa 2 phán đoán.
Tục
ngữ có thể gồm nhiều vế, chứa nhiều phán đoán.
Những
phán đoán trong tục ngữ thường không hiện rõ và đầy đủ.
Phần lớïn những phán đoán trong tục ngữ là những phán đoán
khẳng định.
-Của
người bồ tát.
-Chó
treo, mèo đậy.
-Thuốc
đắng dã tật, sự thật mất lòng.
5.
Các kiểu suy luận
Liên
hệ tương đồng: giữa 2 vế được hiểu ngầm là có các từ so
sánh ngang nhau: như, như thể, cũng là...
Liên
hệ không tương đồng: có các từ chỉ quan hệ so sánh: hơn, thua,
sao bằng...
Liên
hệ tương phản, đối lập: các từ chỉ quan hệ hiểu ngầm: mà,
nhưng, trái lại...
Liên
hệ phụ thuộc: từ chỉ quan hệ hiểu ngầm: nếu ...thì ...
Liên
hệ nhân quả: Từ chỉ sự tất yếu hiểu ngầm: tất phải, tất
yếu, đương nhiên ...
IV. VỀ TỤC NGỮ MỚI |
Từ
sau cách mạng tháng Tám, nhiều câu tục ngữ mới ra đời. Nhiều
những câu tục ngữ này được tạo thành trên cơ sở cải biên
những câu tục ngữ cũ, phản ánh những nét mới trong đời sống
sinh hoạt xã hội và đấu tranh cách mạng của nhân dân.
-Một
tấc không đi, một li không dời.
-Tiếng
hát át tiếng bom.
-Ðảng
viên đi trước, làng nước theo sau.
Tục
ngữ mới vẫn đang trên đường phát triển, phát huy được
những truyền thống tốt đẹp của tục ngữ cổ.
CÂU
ÐỐ |
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂU ĐỐ |
1.
Khái niệm
Trong
kho tàng văn học dân gian Việt Nam, câu đố có số lượng khá
phong phú. Về mặt hình thức và nội dung, câu đố thể hiện
những đặc trưng riêng biệt của một thể loại văn học dân
gian. Trong đời sống tinh thần phong phú của nhân dân, câu đố cũng
chiếm một vị trí đáng kể.
Câu
đố là thể loại văn học dân gian phản ánh sự vật hiện tượng
theo lối nói chệch. Khi sáng tạo câu đố, người ta tìm đặc trưng
và chức năng của từng vật cá biệt và sau đó phản ánh thông
qua sự so sánh, hình tượng hóa.
-Vừa
bằng hột lạc, trong nạc ngoài xương.
-Cái
vũng trâu đầm, con rắn nằm ngang, lấy sào mà đẩy.
Câu
đố được xây dựng nhằm mục đích mô tả, bằng hình tượng
hoặc từ ngữ, những dấu hiệu đặc trưng và chức năng của
những vật đố cá biệt, cụ thể. Câu đố là một phương tiện
để nhận thức và kiểm tra nhận thức về các sự vật hiện tượng
của thế giới khách quan. Ðiều này biểu hiện ở hình thức
cấu tạo câu đố: Ðố - Giải.
Không
phải mọi sự đoán giải đều là câu đố, câu đố là một
thể loại văn học dân gian độc lập.
Ðây
là những câu hát đố:
Anh
đố em:
Cái
gì mà thấp ? cái gì mà cao ?
Cái gì sáng tỏ hơn sao trên trời ?
Cái
gì em trải anh ngồi ?
Cái
gì thơ thẩn ra chơi vườn đào ?
Cái
gì mà sắc hơn dao ?
Cái
gì phơn phớt lòng đào thì em bảo anh ?
Cái
gì trong trắng ngoài xanh ?
Cái
gì soi tỏ mặt anh, mặt nàng ?
Cái
gì xanh, đỏ, trắng, vàng ?
Cái
gì ăn phải dạ càng tương tư ?
Cái
gì năm đợi tháng chờ ?
Cái
gì em đội phất phơ trên đầu ?
Cái
gì sắc hơn dao cau ?
Cái
gì tiện chũm cho nhau ăn cùng ?
Một
quan là mấy trăm đồng ?
Một
mối tơ hồng là mấy trăm dây ?
Một
cây là mấy trăm cành ?
Một
cành là mấy trăm hoa ?
Em
ngồi em giảng cho ra,
Thì
anh kết nghĩa giao hòa cùng em.
(Hát
trống quân).
-Ðến
đây hỏi khách tương phùng.
Chim
chi một cánh dạo cùng nước non ?
-Cây
chi mà bắc qua sông,
Cây
chi mà mọc đàng đông bốn mùa ?
(Hát
phường vải).
2.
Phân biệt câu đố với tục ngữ, ca dao
Có
sự tương đồng về hình thức ngắn gọn, cô đúc, có vần điệu
nhịp nhàng.
-
Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước.
-Vốn xưa nó ở trên non.
Ðem
về mà tạc trên tròn dưới vuông.
Có
sự khác biệt về chức năng và phương pháp nghệ thuật. Trong cách
thức phản ánh của câu đố có những cơ sở giống các ẩn dụ
trong các thể loại văn học dân gian khác. Song câu đố xây dựng
hình tượng phản ánh dấu hiệu đặc trưng và chức năng của
những sự vật, sự việc cụ thể với mục đích kiểm tra,
truyền đạt tri thức về thế giới khách quan.
3.
Nguồn gốc và quá trình hình thành câu đố
Phương
pháp nhận thức và phản ánh nghệ thuật của câu đố là một phương
pháp phổ biến ở hầu hết các dân tộc khác nhau trên thế
giới. Phương pháp này có mầm mống từ thời kỳ rất cổ. Theo
ức đoán, câu đố ra đời từ thời cổ đại liên quan đến
lối nói so sánh gián tiếp phổ biến của người thời cổ, hiện
tượng chưa có tên của nhiều sự vật phổ biến trong giai đoạn
đầu của mọi dân tộc. Việc dùng sự vật này để nói sự
vật khác, việc miêu tả đặc điểm sự vật vào một hình thức
ngôn ngữ là điều hợp quy luật. Nghệ thuật câu đố có thể đã
được nảy sinh từ đó.
4.Phân
loại câu đố
Căn cứ hình thức diễn tả, câu đố được chia 2 loại: câu
đố chính hiệu và câu đố vay mượn.
-Lá xanh, cành đỏ, hoa vàng,
Là
là mặt đất đố chàng cây chi ?
-Vầng
trăng vằng vặc giữa trời,
Ðinh
ninh hai miệng một lời song song.
Căn cứ đối tượng phản ánh, câu đố được chia 2 loại:
loại thuộc tự nhiên, loại thuộc văn hóa.
-Thuở bé em có hai sừng,
Ðến
khi nửa chừng mặt đẹp như hoa.
Ngoài
hai mươi tuổi sắp già,
Quá
ba mươi tuổi mọc ra hai sừng.
-Tám
xóm nhóm lại hai phe,
Dựng
một cây tre bắc cầu một cột.
II. NỘI DUNG CÂU ĐỐ |
1.
Chứa đựng tri thức thực tiễn
Ðối
tượng phản ánh của câu đố là các sự vật hiện tượng trong
thế giới khách quan, phần lớn có liên quan đến những hoạt động
sinh hoạt của người dân.
Trong
cách thức mô tả vật đố, câu đố thường nói đến những nét
đặc trưng về hình thể sự vật, nêu chức năng, hoạt động,
nguồn gốc ... sự vật. Nhiều câu đố xoay quanh những công việc
lao động sản xuất, những đồ dùng phục vụ sản xuất và sinh
hoạt, những sinh vật, hoa quả quen thuộc, các hiện tượng thiên
nhiên gần gũi ... Ngoài ra còn có một số câu đố phản ánh
những mặt sinh hoạt văn hóa của nhân dân như vui chơi, học hành.
-Em
đây anh đoán giống ai,
Cổ
thì dây thắt, mình cài lưng ong.
Anh
yêu, anh bế, anh bồng,
Cõng
em đi khắp ruộng đồng bờ ao.
Về
nhà lơ lửng trên cao.
-Sừng
sững mà đứng giữa nhà,
Hễ
ai động đến thì òa khóc lên.
-Lòng
em có đất, có trời,
Có
câu nhân nghĩa, có lời hiếu trung.
Dù
khi quân tử có dùng,
Thì
em lại ngỏ tấm lòng cho xem.
Ðặc
điểm chủ yếu của nội dung câu đố là tính chất hiện thực,
cụ thể, trực quan. Câu đố cũng thiên về xu hướng vạch ra
những chi tiết, những nét riêng biệt của sự vật, thường không
khái quát hóa, không nêu lên những đặc trưng chung của một
loạt sự vật, hiện tượng cùng loại.
2
Chứa đựng nội dung và ý nghĩa xã hội
Khi
miêu tả thế giới hiện thực xung quanh con người, nhiều câu đố
mang thêm ý nghĩa xã hội, mặc dù đó không phải là mục đích
của câu đố.
Nhiều
câu đố nhắc đến hàng ngũ giai cấp thống trị với thái độ
xem thường, diễu cợt, hoặc đề cao người lao động và những công
việc, dụng cụ do họ làm ra,, hoặc nói đến một số hiện tượng
phản ánh về mối quan hệ giữa con người với nhau, về thực
trạng đời sống ở góc độ nhất định.
-Một
lũ ăn mày, một lũ quan,
Quanh
đi quẩn lại cũng một đàn.
Ðêm
thu gió lạnh đèn thì tắt,
Hết
cả ăn mày, hết cả quan.
III. PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT |
1.
Phương pháp xây dựng câu đố bằng các hình thức ẩn dụ
Câu
đố thường đưa ra những nét tương đồng về hình dạng bên ngoài
của các sự vật khác so với vật đố, những dấu hiệu của đối
tượng được dấu tên, như những chức năng, công dụng của các
đối tượng trong cuộc sống sinh hoạt, những đặc điểm của đối
tượng về hình dáng, trạng thái hoạt động, sự chuyển động,
bất động, sự xuất hiện, điều kiện sống ... để gợi sự liên
tưởng.
-Không
sông mà bắc phù kiều,
Không
rừng mà có chim kêu trên ngàn.
Không
ruột mà lại có gan,
Không
thờ mà có song loan để ngồi.
-Mình vàng mà thắt đai vàng,
Một
mình dọn dẹp sửa sang trong
nhà.
Những
ẩn dụ của câu đố được xây dựng trên biện pháp so sánh nhân
cách hóa trên cơ sở liên tưởng với tất cả những biểu hiện
phong phú của đời sống con người. Lối ẩn dụ của nhiều câu
đố có xu hướng làm cho những sự vật, sự việc bình thường
trở nên trang trọng.
-Vốn
xưa từ đất sinh ra,
Mà
ai cũng gọi tôi là con quan.
Dốc lòng việc nước lo toan,
Ðầy
vơi phó mặc thế gian ít nhiều.
-Sinh
ra con gái má hồng,
Gả
đi lấy chồng đất nước người ta.
Ðến khi tuổi tác đã già,
Quê
chồng em bỏ, quê cha em tìm.
1.
Phương pháp xây dựng câu đố bằng hình thức chơi chữ
Câu
đố thường sử dụng từ đồng âm dị nghĩa, đồng nghĩa dị âm,
nói lái, chiết tự ...
-Ngay mình chịu tiếng thất trung,
Phố
phường không làm bạn, bạn cùng áo nâu.
-Một bầy gà mà bươi trong bếp,
Chết mất ba con, hỏi có mấy con.
-Nửa làm mứt, nửa nấu canh,
Ðến
khi mất sắc theo anh học trò.
2.
Câu đố sử dụng các thể thơ truyền thống, có vần,
nhịp điệu, cô đúc, cân đối nhịp nhàng.
-Aïo đơn, áo kép, đứng nép bờ ao.
-Sừng
sững mà đứng giữa nhà,
Ai
vào không hỏi, ai ra không chào.
3.
Câu đố cũng có xu hướng đưa vào yếu tố tục, song yếu
tố này ở câu đố không mang nội dung xã hội, thường chỉ có tác
dụng tạo sự dí dỏm, gây cười.
CA
DAO |
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CA DAO |
1.Thuật
ngữ và khái niệm
Trong
sinh hoạt văn học dân gian, có một bộ phận quan trọng là sinh
hoạt ca hát, trong đó tiêu biểu nhất là việc diễn xướng ca
dao, dân ca. Ðể chỉ lĩnh vực ca hát dân gian, nhân dân sử dụng
các từ: ca, hò, ví, lý, hát giao duyên, hát đối, hát huê tình ...
Giới
nghiên cứu, các nhà nho sưu tầm, biên soạn gọi những câu hát dân
gian là: phong sử, phong dao, ca dao, dân ca, thơ ca dân gian, thơ ca
truyền miệng dân gian, thơ ca trữ tình dân gian...
Ca
dao là thuật ngữ Hán Việt. Theo từ nguyên, ca là bài hát có chương
khúc, giai điệu; dao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương
khúc.
Sách
Trung Quốc ca dao: ca là bài hát có hòa với nhạc, dao là lời của
bài hát đó.
Theo
Lịch sử văn học Việt Nam của Bùi Văn Nguyên: ca dao là những bài
có hoặc không có chương khúc, sáng tác bằng thể văn vần dân
tộc (thường là lục bát), để miêu tả, tự sự, ngụ ý và
diễn đạt tình cảm. Dân ca là những bài hát có hoặc không có
chương khúc do nhân dân sáng tác lưu truyền trong dân gian ở từng
vùng hoặc phổ biến ở nhiều vùng có nội dung trữ tình và có
giá trị đặc biệt về nhạc.
Thông
thường, sự phân biệt giữa ca dao và dân ca là ở chỗ, khi nói
đến ca dao, người ta thường nghĩ đến những lời thơ dân gian,
còn nói đến dân ca, người ta nghĩ đến cả những làn điệu,
những thể thức hát nhất định.
-Một
đàn có trắng bay tung,
Bên nam, bên nữ ta cùng cất lên.
Cất lên một tiếng linh đình,
Cho
loan sánh phượng, cho mình sánh ta...
(Hát
trống quân).
--Trên
trời có đám may xanh,
Chính
giữa mây trắng chung quanh mây vàng.
Ơi
là tình phụ tình phàng.
Chừ
là duyên lắm bấy,
Chừ
cái dạ em trông chồng, mà không thấy chồng đâu.
Ơi
ông chồng, chồng mình ơi !
Chi
mà tệ, tệ lắm chàng !
Chi
mà bạc, bạc lắm chàng ! ...
(Lý
vọng phu)
Trong
ca dao, đại đa số là tác phẩm trữ tình. Ca dao là loại trữ tình
của văn học dân gian. Khái niệm trữ tình dân gian được hiểu
trong sự đối lập với khái niệm tự sự dân gian ở góc độ
loại hình. Ðối tượng của nó là những sáng tác phản ánh
hiện thực đời sống không phải thông qua cốt truyện, sự xung
đột của hành động nhân vật màì thông qua sự thể hiện tâm
trạng các nhân vật trữ tình.
-Trâu
ơi ta bảo trâu này,
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta ...
-Bướm
vàng đậu đọt mù u,
Lấy
chồng càng sớm, tiếng ru càng buồn.
-Còn
duyên kẻ đón người đưa,
Hết
duyên đi sớm về trưa mặc lòng.
-Thân
cò lặn lội bờ sông,
Gánh
gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non ...
2.
Phân loại
Ðồng
dao
Ðồng
dao là thơ ca dân gian truyền miệng trẻ em. Chủ thể sáng tác
diễn xướng chủ yếu là trẻ em thể hiện những cảm nghị,
cảm xúc ngây thơ thường nảy ra một cách ngẫu nhiên ở trẻ em.
Trẻ em thường vừa chơi trò chơi, vừa ca hát. Ðồng dao được
chia thành hai loại: loại gắn với công việc của trẻ em, loại
gắn với trò chơi của trẻ em.
-...
Nghé ơ ... Mẹ gọi tiếng trước,
Cất
cổ lên đàng ...
Nghé
o ...Mẹ gọi tiếng sau,
Cất
lồng lên chạy ...
Có
khôn thì đi theo mẹ,
Có
khéo thì đi theo đàn,
Chớ
đi theo quẩn theo quàng,
Có
ngày mất mẹ ... nghé ơ ...
-Nu
na nu nống,
Cái
cống nằm trong,
Cái
ong nằm ngoài,
Củ
khoai chấm mật.
...
Con cóc nhảy ra,
Con
gà ú ụ,
Nhà
mụ thổi xôi,
Nhà
tôi nấu chè,
Tay
xoè, chân rụt !
-Thằng
Cuội ngồi gốc cây đa,
Ðể
trâu ăn lúa gọi cha ới ời,
Cha
còn cắt cỏ trên trời,
Mẹ
còn cưỡi ngựa đi mời quan viên.
Ông
thì cầm bút, cầm nghiên,
Ông
thì cầm tiền đi chuộc lá đa ...
Ca
dao lao động
Ca
dao lao động là phần lời cốt lõi của dân ca lao động. Những bài
ca lao động tồn tại như là một bộ phận của quá trình lao động.
Ðặc điểm cơ bản là có sự gắn bó giữa nhịp điệu lao động
và xúc cảm của con người trong lao động.
-Hò
lao động nảy sinh trên cơ sở những công việc có sự lắp đi
lắp lại động tác lao động, có tính chất tổ chức nhịp điệu
lao động.
Hò
giật chỉ (hò kéo lưới) Nam Trung Bộ:
-Ra
đi sóng biển mịt mù,
Trời
cho lưới nặng dô hò kéo lên.
Phần
lời này sẽ do một người lĩnh xướng (cái hát), những người
khác xô theo (con hát). Trong quá trình diễn xướng của nó, sẽ có
sự diễn biến nhanh chậm tùy theo tính chất công việc. Khi lưới
còn ngoài khơi, động tác kéo lưới chậm, tiết tấu nhịp điệu
câu hát cũng chậm. Khi lưới gần bờ, tốc độ kéo lưới nhanh,
nhịp điệu hát, tiết tấu cũng nhanh mạnh hơn.
Ở Hò giã gạo Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và một
số địa phương Nam Trung Bộ: câu xô gồm 6 tiếng àơ à à ơ à,
thể hiện động tác muốn nhấc cao cái chày lên trước khi đặt
nó về chỗ cũ ... (Nguyễn Xuân Khoát). Tên các giai đoạn hò cũng
tương ứng các giai đoạn của một cuộc giao duyên nam nữ hơn là
tính chất công việc lao động: hò mời, hò ân tình, hò xa cách.
Như vậy, ở nhiều bài hò lao động, yếu tố trữ tình luôn
đan xen thể hiện
chức năng giao lưu tình cảm, có khi lấn áp chức năng phối hợp
động tác lao động ban đầu của tiểu loại.
-
Bài ca nghề nghiệp nói về nghề nghiệp truyền thống như bài ca
về lịch lao động của nghề làm ruộng, nghề chài lưới ....
-Tháng
chạp là tiết trồng khoai,
Tháng
giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà.
Tháng
ba thì đậu đã già,
Ta
đi ta hái về nhà phơi khô.
Tháng
tư đi tậu trâu bò,
Ðể
ta sắm sửa làm mùa tháng năm ...
Ca
dao ru con
Hát ru có từ lâu đời và rất phổ biến. Trên mỗi miền có
một điệu hát ru riêng biệt phù hợp với giọng nói, ngôn ngữ
địa phương. Lời hát ru phần nhiều là những câu ca dao có sẵn.
Ca dao ru con rất gần gũi, thể hiện rất rõ chức năng thực hành
xã hội của ca dao.
-Ru
em em théc cho mùi,
Ðể
mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu.
Mua
vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua
cau Nam Phổ, mua trầu chợ Dinh.
-Con cối đá nằm trong cối đá,
Con chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng
gần bậu không lấy, bậu lấy chồng xa.
Mai
sau cha yếu mẹ già.
Chén cơm, đôi đũa, bộ kỷ trà ai dâng ?
-
Ca dao nghi lễ, phong tục
-Lạy
trời mưa xuống.
Lấy
nước tôi uống.
Lấy
ruộng tôi cày ...
Trong
nhiều bài ca tế thần, các yếu tố trữ tình cũng có mặt, cùng
với yếu tố hiện thực, chúng biểu hiện sức mạnh của đời
sống hiện thực trong các hình thức sinh hoạt tôn giáo trong nhân
dân.
-Ở
gần hay là ở xa,
Cách
phủ cách huyện hay là cách sông ?
Xa
xôi cách mấy quảng đồng,
Ðể
anh bỏ việc bỏ công đi tìm ...
Ca
dao trào phúng, bông đùa
Ca
dao trữ tình.
II. NỘI DUNG CA DAO |
1.
Ca dao phản ánh lịch sử
Ca
dao là những bài ca về lịch sử. Nhưng trước tiên, việc xác định
nội dung lịch sử của những câu ca dao cũng là vấn đề cần xem
xét.
Tác
giả Nguyễn Văn Mại trong Việt Nam phong sử đã trình bày quan điểm
của mình trong bài Tựa: Phong là cái gì ? Là thơ ở trong ca dao dân
tục vậy. Sử là cái gì ? Là cái gương sáng để khen chê khuyến
trừng việc thị phi thiện ác vậy. Tại sao phong mà lại gọi là
sử ? Vì nhân đọc dân phong mà biết quốc sử vậy. Với phương
pháp biên soạn: đem ý riêng nghị luận bổ thêm vào ... lấy phong
dao làm gương sáng để chiếu tinh thần quốc sử, lại lấy quốc
sử làm căn bản để cắm cái hoa lá phong dao ..., tác giả đã có
sự gắn kết các câu ca dao vào từng thời kỳ, sự kiện, nhân
vật lịch sử. Chẳng hạn:
-Tưởng
là chị ngã em nâng,
Chẳng
hay chị ngã em mừng em lo.
được
tác giả coi là nói về việc Trịnh Tùng tranh cướp lấn quyền
của anh là Trịnh Cối sinh ra hiềm khích đánh nhau.
Theo cách thức như vậy, có thể ghép nhiều nội dung lịch
sử khác nhau cho cùng một câu ca dao:
-Nước lã mà vã nên hồ,
Tay
không mà nổi cơ đồ mới ngoan.
được
cho là nói về việc sau hai bà Trưng lại có Lý Nam Ðế xưng hùng,
chống nhau với nhà Lương, người khác lại cho là nói về việc Lê
Hoàn được sự nâng đỡ của Dương Vân Nga mà lấy được ngai vàng
nhà Ðinh ...
Ca dao lịch sử nói đến lịch sử bằng một thứ ngôn ngữ
trực tiếp. Ca dao lịch sử không phản ánh hiện tượng lịch sử
trong quá trình diễn biến của nó, mà chỉ nhắc đến sự kiện
lịch sử để nói lên thái độ, quan điểm nhân dân.
Nhân
dân nói về sự kiện Bà Triệu khởi nghĩa chống lại ách thống
trị của quân Ngô xâm lược hồi thế kỷ III:
-Ru
con con ngủ cho lành,
Ðể
mẹ gánh nước rửa bành cho voi.
Muốn
con lên núi mà coi,
Coi
bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.
Túi
gấm cho lẫn túi hồng,
Têm
trầu cánh kiến cho chồng đi quân.
Về
cuộc kháng chiến vĩ đại mười năm chống quân Minh hồi thế
kỷ XV gắn với tên tuổi người anh hùng Lê Lợi và nghĩa quân
Lam Sơn, nhân dân ghi nhớ trong lời ca dao:
-Ai
lên Biện Thượng, Lam Sơn,
Nhớ
đây Lê Lợi chặn đường quân Minh.
Có
những câu ca dao nói đến những sự kiện phản ánh tình hình suy
thoái của chính quyền phong kiến.
-Cơm
ăn mỗi bữa mỗi lưng,
Bao
giờ gánh đá ông Ðăng cho rồi.
nói
về sự khốn khổ của nhân dân Thanh Hóa thời Hậu Lê (1600)
phải đi phu gánh đá xây sinh từ cho Ðăng quận công Nguyễn
Khải.
-Vạn Niên là Vạn Niên nào,
Thành
xây xương lính, hào đào máu dân.
Câu
ca dao là lời ta thán của nhân dân khi phải chịu cảnh phu phen
tạp dịch nặng nề để xây lăng Vạn Niên cho vua Tự Ðức.
Bằng
lời lẽ táo bạo nhân dân đánh vào sự thối nát, rối ren của
chính quyền thống trị của họ Trịnh cuối thế kỷ XVIII:
-Trăm quan có mắt như mờ,
Ðể cho Huy Quận vào sờ chính cung.
-Ðục
cùn thì giữ lấy Tông,
Ðục long, Cán gãy, còn mong nỗi gì !
2.
Phản ánh nếp sống, phong tục, tập quán truyền thống
Những
phong tục, tập quán truyền thống trong các lĩnh vực sinh hoạt
vật chất, tinh thần của nhân dân được thể hiện rất phong phú
trong ca dao.
Ðây
là những tập quán trong lao động nông nghiệp, ngư nghiệp:
-Người
ta đi cấy lấy công,
Còn
tôi đi cấy còn trông nhiều bề,
Trông
trời, trông đất, trông mây,
Trông
mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm.
Trông
cho chân cứng, đá mềm,
Trời
yên bể lặng mới yên tấm lòng.
-Cày
đồng đang buổi ban trưa,
Mồ
hôi thánh thót như mưa ruộng cày ...
-Chồng
chài, vợ lưới, con câu,
Mênh
mông bể Sở biết đâu là nhà.
Những
cảnh sinh hoạt truyền thống:
-Hôm
qua anh đến chơi nhà,
Thấy
mẹ nằm võng, thấy cha nằm giường.
Thấy em nằm đất anh thương...
-Aïo
đen năm nút viền bâu,
Ai
may cho bậu hay là bậu may.
-Mua
cau chọn những buồng sai,
Mua trầu chọn những trăm hai lá vàng.
Tai
nghe trống chiến trống chầu,
Xếp
ba miếng kẹo lộn đầu, lộn đuôi.
3.
Phản ánh đời sống tình cảm nhân dân
Ca
dao trước hết là tiếng hát về tình yêu của con người, đây là
một tình cảm phong phú và rộng lớn.
Những
thắng cảnh thiên nhiên mọi miền đất nước, những công trình văn
hóa từ bao đời ... được khắc họa như một bức tranh rộng
lớn trong ca dao, thể hiện sự nhận thức về cương vực tổ
quốc, lòng yêu mến, tự hào về đất nước, con người.
-Nhất
cao là núi Ba Vì,
Thứ
ba Tam Ðảo, thứ nhì Ðộc Tôn.
-Nhất
cao là núi Tản Viên,
Nhất
sâu là vũng Thủy Tiên cửa Vường.
-Làm
trai cho đáng nên trai,
Phú
Xuân đã trải, Ðồng nai đã từng.
-Ðường
vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non
xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Yêu
em anh cũng muốn vô,
Sợ
truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang.
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn,
Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm.
-Rủ
nhau chơi khắp Long Thành,
Ba
mươi sáu phố rành rành chẳng sai.
Hàng
Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,
Hàng
Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay.
Mã
Vĩ, hàng Ðiếu, hàng giày,
Hàng
Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Ðàn.
Phố
Mới, Phúc Kiến, hàng Than,
Hàng
Mã, hàng Mắm, hàng Ngang, hàng Ðồng.
Hàng
Muối, hàng Nón, cầu Ðông,
Hàng
Hòm, hàng Ðậu, hàng Bông, hàng Bè.
Hàng
Thúng, hàng Bát, hàng Tre,
Hàng
Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà.
Quanh
đi đến phố hàng Da,
Trải
xem phưòng phố thật là cũng xinh.
Phồn
hoa thứ nhất Long Thành,
Phố
giăng mắc cửi đường quanh bàn cờ.
Người
về nhớ cảnh ngẩn ngơ,
Bút
hoa xin chép vần thơ lưu truyền.
Sự
giàu có của những sản vật tự nhiên, và những sản phẩm do bàn
tay sáng tạo của con người đã làm nên nét đẹp quê hương có
mặt rất nhiều trong ca dao:
-Muốn
ăn mật rú vô Trèn,
Muốn
xơi ốc đực thì lên Thác Ðài.
-Lụa
này thật lụa cố đô,
Chính
tông lụa cống các cô đang dùng.
-Bến
Tre giàu mía Mõ Cày,
Giàu
nghêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn.
Ca
dao trữ tình về tình yêu nam nữ có nội dung phản ánh được
mọi biểu hiện của tình cảm lứa đôi trong tất cả những
chặng đường của nó: giai đoạn gặp gỡ, ướm hỏi nhau, giai đoạn
gắn bó trao gửi những lời thề nguyền, giai đoạn hạnh phúc
với những niềm ước mơ, những nỗi nhớ nhung hoặc nỗi đau
khổ với những lời than thở, oán trách ...
-Hôm
qua tát nước đầu đình,
Bỏ
quên cái áo trên cành hoa sen.
Em
được thì cho anh xin,
Hay
là em để làm tin trong nhà.
Aïo
anh sứt chỉ đường tà,
Vợ
anh chưa có mẹ già chưa khâu.
Aïo
anh sứt chỉ đã lâu,
Mai
mượn cô ấy về khâu cho cùng.
Khâu
rồi anh sẽ trả công,
Ít
nữa lấy chồng anh sẽ giúp cho.
Giúp
em một thúng xôi vò,
Một
con lợn béo, một vò rượu tăm.
Giúp
em đôi chiếu em nằm,
Ðôi
chăn em đắp, đôi trằm em đeo.
Giúp
em qua tám tiền cheo,
Quan
năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
-Quạt
này anh để che đầu,
Ðêm
đêm đi ngủ chung nhau quạt này.
Ước
gì chung mẹ, chung thầy,
Ðể
em giữ cái quạt này làm thân.
Rồi
ra chung gối chung chăn,
Chung
quần chung áo, chung khăn đội đầu.
Nằm
thì chung cái giường Tàu,
Dậy
thì chung cả hộp trầu ống vôi.
Ăn
cơm chung cả một nồi,
Gội
đầu chung cả dầu hồi nước hoa.
Chải
đầu chung cái lược ngà,
Soi
gương chung cả ngành hoa giắt đầu...
-Muốn
khuây dạ nỏ chịu khuây,
Sự
đâu đem đổ dạ này mê man.
-Buổi mai em xách cái thống,
Em xuống dưới ao em bắt con cua,
Em bỏ vô trong cái thống;
Hắn
kêu cái rỏng, hắn kêu cái rảnh,
Hắn
kêu một tiếng chàng ôi !
Chàng
đà yên phận tốt đôi,
Em
nay lẻ bạn mồ côi một mình.
-Ngọn lang trắng, ngọn vắn, ngọn dài,
Rau tần ô, ngã dọc, ngã ngang,
Trái dưa gang sọc đen, sọc trắng,
Ngọn
rau đắng, trong trắng ngoài xanh.
Chim
quyên uốn lưỡi trên nhành,
Bởi
em ở bạc, ông trời nào đành để em.
-Trèo
lên cây bưởi hái hoa,
Bước
xuống vườn cà hái nụ tầm xuân ...
Một
bộ phận bài ca này còn mang thêm ý nghĩa xã hội, những bài ca nói
đến sự trắc trở trong tình
yêu đôi lứa:
-Hai
ta là bạn thong dong,
Như
đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng.
Bởi
chưng thầy mẹ nói ngang,
Cho
nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau.
-Vắn
tay với chẳng đặng kèo,
Cha
mẹ anh nghèo cưới chẳng đặng em.
Ca
dao trữ tình thể hiện rất phong phú những biểu hiện của tình
cảm gia đình: tình cảm vợ chồng, tình cảm cha mẹ và con cái,
tinh cảm anh em ... phản ánh nhiều mặt đời sống tình cảm của
nhân dân.
Ðây
là hình ảnh một gia đình truyền thống:
-Sáng
trăng trải chiếu hai hàng,
Bên
anh đọc sách, bên nàng quay tơ.
Tình
nghĩa gắn bó, thủy chung, tiếng nói đạo nghĩa của nhân dân:
-Muối
ba năm muối đương còn mặn,
Gừng
cay chín tháng gừng hãy còn cay,
Ðạo
nghĩa cang thường chớ đổi đừng thay,
Dẫu
có làm nên danh vọng, rủi có ăn mày ta cũng theo nhau.
Những
bài ca tuyệt hay về tình mẹ con:
-Ngồi
buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng
nhai cơm bún, lưỡi lừa cá xương.
-Mẹ
già ở túp lều tranh,
Sớm
thăm, tối viếng mới đành dạ con.
4.
Phản ánh đời sống xã hội cũ
Ca
dao trữ tình lấy đề tài trong đời sống xã hội khắc họa
một bức tranh phong phú về hiện thực. Ca dao phản ánh những tâm
trạng đau khổ, chua xót, uất ức, thái độ phản kháng của nhân
dân chống ách thống trị phong kiến.
-Gánh
cực mà đổ lên non,
Còng lưng mà chạy, cực còn chạy theo.
-Bộ
Binh, bộ Hộ, bộ Hình ...
-Con
cò mà đi ăn đêm,
Ðụng
phải cành mềm, lộn cổ xuống ao.
Ông
ơi ông vớt tôi nao,
Tôi
có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có
xáo thì xáo nước trong,
Ðừng
xáo nước đục, đau lòng cò con.
-Con
vua thì lại làm vua,
Con
sãi ở chùa lại quét lá đa,
Bao
giờ dân nổi can qua,
Con
vua thất thế lại ra quét chùa.
Ca
dao phản ánh khá nổi bật đời sống, tâm trạng người phụ nữ
trong xã hội cũ. Ðây cũng là những tâm trạng uất ức, đau khổ
trước những bất công xã hội áp đặt đối với người phụ
nữ.
-Thân
em như hạt mưa sa,
Hạt
vào đài các hạt ra ruộng cày.
-Thân
em như giếng giữa đàng,
Người
khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.
-Lênh
đênh chiếc bách giữa dòng,
Thương
thân goá bụa phòng không lỡ thì.
Gió
đưa cây trúc ngã quỳ,
Ba
năm chực tiết còn gì là xuân !
Người
phụ nữ trong ca dao không cam chịu với địa vị thấp kém, phụ
thuộc:
-Chồng
con là cái nợ nần,
Chẳng
thà ở vậy nuôi thân béo mầm.
-Không
chồng mà chửa mới ngoan,
Có
chồng mà chửa thế gian sự thường.
Những
bài ca về người lính và người vợ lính phản ánh sự phản kháng
mạnh mẽ của nhân dân trước những cuộc chiến tranh phong kiến
xảy ra liên miên suốt bốn thế kỷ từ đầu thế kỷ XVI đến
đầu thế kỷ XIX.
Ðây
là bài ca về người lính thú với tâm trạng u uất, buồn khổ:
-Ba
năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày
thì canh điếm, tối dồn việc quan.
Chém
tre đẵn gỗ trên ngàn,
Hữu
thân hữu khổ phàn nàn cùng ai !
Miệng
ăn măng trúc, măng mai,
Những
giang cùng nứa biết ai bạn cùng ?
Nước
giếng trong con cá nó vẫy vùng.
Bài
ca về người vợ lính sáng lên hình ảnh người phụ nữ với đức
hy sinh, tinh thần đấu tranh chống phong kiến.
-Cái
cò lặn lội bờ sông,
Gánh
gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Nàng
về nuôi cái cùng con,
Ðể
anh đi trẩy nước non Cao Bằng.
-...
Chém cha cái giặc chết hoang,
Làm
cho thiếp phải gánh lương theo chồng.
Gánh
từ xứ Bắc, xứ Ðông,
Ðã
gánh theo chồng lại gánh theo con.
5.
Chứa đựng tiếng cười trào phúng
Ca
dao trào phúng và ca dao trữ tình có mối quan hệ khăng khít nhau.
Ca dao trào phúng thể hiện tính thích trào lộng của nhân dân.
Phạm vi đề tài của ca dao trào phúng cũng rất rộng rãi. Các
hiện tượng trái tự nhiên, không bình thường có thể trở thành
đối tượng của nó.
-Chồng
còng mà lấy vợ còng,
Nằm
phản thì chật, nằm nong thì vừa.
-Lỗ
mũi em mười tám gánh lông,
Chồng
yêu chồng bảo tơ hồng trời cho.
Ðêm
nằm thì ngáy o o,
Chồng
yêu chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Ði
chợ thì hay ăn quà,
Chồng
yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm ...
Phần
lớn ca dao trào phúng có nội dung xã hội. Bằng tiếng cười trào
phúng, nhân dân phê phán, đả kích giai cấp thống trị, những
hiện tượng không bình thường, phi lý, những tệ trạng ... thể
hiện khát vọng của nhân dân về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Những
bài thách cưới có tính chất trào phúng phê phán những tục lệ
thách cưới, nộp cheo, là những hủ tục trong chế độ hôn nhân
xưa:
-Em
về thưa với mẹ cha,
Bắt
lợn đi cưới bắt gà đi cheo.
Ðầu
lợn lớn hơn đầu mèo,
Làng
ăn không hết làng treo cột đình.
Ông
quan đánh trống thình thình,
Quan
viên mũ áo ra đình ăn cheo.
-Cưới
nàng anh toan dẫn voi,
Anh
sợ quốc cấm nên voi không bàn.
Dẫn
trâu, sợ họ máu hàn,
Dẫn
bò, sợ họ nhà nàng co gân.
Miễn
là có thú bốn chân,
Dẫn
con chuột béo, mời dân, mời làng.
-Chàng
dẫn thế em lấy làm sang,
Nỡ
nào em lại phá ngang như là ...,
Người
ta thách lợn thách gà,
Nhà
em thách cưới một nhà khoai lang;
Củ
to thì để mời làng,
Còn
như củ nhỏ họ hàng ăn chơi.
Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi,
Ðể
cho con trẻ ăn chơi giữ nhà...
Nhân
dân hướng mũi nhọn đả kích vào tầng lớp thống trị phong
kiến tập trung vào một số đối tượng rất quen thuộc trong văn
học dân gian: vua chúa, các loại quan văn, quan võ, các loại thầy
cúng, thầy bói, sư giả hiệu ...
-Vua
Lê ba mươi sáu tàn vàng,
Thấy
gái đi đàng ngó ngó nom nom.
Cô
nào óng ả son son,
Vua
đóng vào hòm đem trẩy về kinh.
-Em
là con gái đồng trinh,
Em
đi bán rượu qua dinh ông Nghè.
Ông
Nghè sai lính ra ve,
Trăm
lạy ông nghè ông đã có con.
Có
con thì mặc có con,
Thắt
lưng cho giòn theo võng cho mau.
-Cậu
cai nón dấu lông gà,
Cổ
tay đeo nhẫn gọi là cậu cai.
-Cậu
cai buông áo em ra
Ðể
em đi chợ kẻo mà chợ trưa ...
-Chập
chập cheng cheng,
Con
gà trống thiến để riêng cho thầy.
Ðơm
xôi thì đơm cho đầy,
Ðơm
mà vơi đĩa thì thấy không ưa.
-Hòn
đất mà biết nói năng,
Thì
thầy địa lý hàm răng chẳng còn.
Từ
sự phê phán những biểu hiện cụ thể, đây còn là quan điểm
của nhân dân về vấn đề tôn giáo:
-Ai
lên Hương Tích Chùa Tiên,
Gặp
cô sư bác, anh khuyên đôi lời:
Ðem
thân làm cái kiếp người,
Tu
sao cho trọn nước đời mà tu ?
III. NGHỆ THUẬT CA DAO |
1.
Thể thơ
Ca
dao sử dụng nhiều thể thơ khác nhau.
Thể
lục bát gồm câu sáu, câu tám, thể thơ này rất phổ biến trong
ca dao.
Thể
song thất lục bát gồm hai câu bảy, câu sáu, câu tám, được sử
dụng không nhiều.
Thể
vãn thường gồm một câu có bốn hoặc năm chữ, rất đắc dụng
trong đồng dao.
Ngoài
ra ca dao cũng sử dụng hợp thể là thể thơ gồm từ bốn, năm
chữ thường kết hợp với lục bát biến thể.
-Anh
nói với em,
Như
dao chém xuống đá,
Như
nhựa chém xuống đất,
Như
mật rót vào tay.
Bây
chừ anh đã nghe ai,
Bỏ
em giữa chốn thuyền chài rứa ri.
Các
thể thơ phong phú diễn tả được nhiều tư tưởng tình cảm
của nhân dân.
2.
Cấu tứ
Các
kiểu cấu tứ của ca dao khá phong phú.
Cấu
tứ theo lối ngẫu nhiên không có chủ đề nhất định.
-Cái
sáo mặc áo em tao,
Làm
tổ cây cà,
Làm
nhà cây chanh...
Cấu
tứ theo lối đối thoại khá phổ biến trong ca dao.
-Bây
giờ mận mới hỏi đào,
Vườn
hồng đã có ai vào hay chưa ?
Mận
hỏi thì đào xin thưa,
Vườn
hồng có lối nhưng chưa ai vào.
Cấu
tứ theo lối phô diễn về thiên nhiên là một kiểu cấu tứ quen
thuộc trong ca dao.
-Một
đàn cò trắng bay tung,
Bên
nam bên nữ ta cùng hát lên.
-Nước chảy liu riu, lục bình trôi líu ríu,
Anh thấy em nhỏ xíu anh thương.
3.
Ngôn ngữ
Cách
sử dụng và tổ chức ngôn ngữ ca dao rất độc đáo. Có những
lời ca ca dao giản dị, cụ thể. Có những lời ca dao điêu
luyện, tinh tế.
-Nước
ròng bỏ bãi xa cừ,
Gặp
em hỏi thử sao từ ngỡi nhân ?
-Sông
Cầu nước chảy lơ thơ,
Ðôi
ta thương nhớ bao giờ cho nguôi.
-...Em
ơi chua ngọt đã từng,
Non
xanh nước bạc ta đừng quên nhau.
4.Thời
gian và không gian nghệ thuật
Luận
điểm của G. Mansep: Trong dân ca trữ tình chúng ta thấy rõ luận
đề này; hãy nói cho tôi biết nhân vật trữ tình đang ở thời
điểm nào, đang đứng ở đâu, tôi sẽ có thể nói điều gì đang
diễn ra với nhân vật.
Thời
gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại, lúc diễn xướïng
bài ca
-Bây
giờ ta gặp nhau đây,
Như
con cá cạn gặp ngày trời mưa.
-Ngó
lên nuột lạt mái nhà,
bao
nhiêu nuột lạt, thương bà bấy nhiêu.
Không
gian nghệ thuật trong ca dao là không gian có tính hiện thực, xác
định.
-Cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp,
Em qua không kịp tội lắm anh ơi,
Bấy
lâu ni mang tiếng chịu lời,
Dẫu
xa nhau chăng nữa cũng tại trời mà xa.
5.
Các biện pháp nghệ thuật truyền thống
So
sánh, ẩn dụ, nhân hóa, chơi chữ, ngoa dụ ... là những biện pháp
nghệ thuật rất tiêu biểu trong ca dao.
-Thân
em như hạt mưa rào,
Hạt
rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa.
-Thuyền
ơi có nhớ bến chăng,
Bến
thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
-Bà
già đi chợ cầu Ðông,
Bói
xem một quẻ lấy chồng lợi không.
Thầy
bói xem quẻ nói rằng,
Lợi
thì có lợi nhưng răng không còn.
-Ðêm
nằm mà nghĩ gần xa,
Trở
mình nó gãy mười ba thanh giường.
IV. VÀI NÉT VỀ BỘ PHẬN CA DAO THỜI KỲ ĐẤU TRANH CHỐNG THỰC DÂN ĐẾ QUỐC |
1.
Hoàn cảnh xã hội lịch sử
Thực
dân Pháp trở lại xâm lược đất nước. Nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Ðảng và Bác tiến hành cuộc kháng chiến gian khổ và
anh dũng kết thúc bằng chiến thắng Ðiện Biên Phủ vĩ đại.
Ðế
quốc Mỹ can thiệp vào miền Nam âm mưu chia cắt lâu dài đất nước
ta. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đấu tranh thống
nhất đất nước diễn ra liên tục 20 năm. Chiến thắng mùa xuân
1975 mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta.
2.
Nội dung
Phản
ánh hiện thực, văn học dân tộc thực sự trở thành vũ khí đấu
tranh cách mạng của nhân dân, văn học dân gian, ca dao đã trở thành
vũ khí đấu tranh sắc bén chống thực dân và đế quốc xâm lược.
Ca dao có bước phát triển mới, gửi gấm một cách trực tiếp, sâu
sắc tư tưởng, tình cảm của nhân dân trên hiện thực mới:
hiện thực đấu tranh cách mạng của nhân dân.
Trên
đại thể, có hai bộ phận: ca dao kháng chiến, ca dao chống Mỹ.
Ca
dao mang nội dung yêu nước chống xâm lược, phản ánh tình cảm
lớn của dân tộc, công cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân.
Ca
dao kháng chiến, ca dao chống Mỹ là khối thống nhất tổng hợp tình
cảm, tư tưởng nhân dân trong 30 năm chiến đấu chống xâm lược.
Ca
dao vạch rõ kẻ thù của dân tộc từ những năm đầu Pháp xâm lược:
-Nhà
vua thân với Lang sa,
Ðể
Tây ăn cắp trứng gà của dân.
Truyền
thống yêu nước vĩ đại được phát huy mạnh mẽ. Nhân dân ý
thức sâu sắc nhiệm vụ đánh đuổi ngoại xâm, thực hiện kháng
chiến trường kỳ. Thể hiện sức mạnh quật khởi của dân tộc
không gì đè bẹp nổi.
-Bao
giờ hết cỏ nước Nam,
Thì
dân ta mới hết người đánh Tây.
Khác
với thời kỳ trước, ca dao sau cách mạng tháng Tám nói chung
chứa đựng thêm tình cảm của nhân dân đối với lãnh tụ.
-Cụ
Hồ ở giữa lòng dân,
Tuy
xa xa lắm nhưng gần gần ghê.
Nhân
dân xem hình ảnh lãnh tụ là biểu tượng đẹp nhất, cao quý
nhất của đất nước. Ca dao chống Mỹ có nhiều bài thể hiện
tấm lòng miền Nam đối với Bác Hồ:
-Tháp
Mười đẹp nhất bông sen,
Việt
Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
Ca
dao phản ánh tư tưởng lớn của dân tộc đó là tinh thần quyết
chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược: thời kháng chiến quyết tâm
đánh đuổi thực dân Pháp, thời chống Mỹ, quyết tâm đấu tranh
thống nhất nước nhà.
Ca
dao thể hiện tinh thần phục vụ sự nghiệp chiến đấu cứu nước
của nhân dân: không khí sôi nổi của phong trào thi đua yêu nước
cho thấy cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc là cuộc
chiến tranh nhân dân.
-Hôm
qua anh đến chơi nhà,
Thấy
mẹ dệt vải thấy cha đi bừa.
Thấy
cháu I tờ đang học bi bô.
Thì
ra vâng lệnh cụ Hồ,
Cả
nhà yêu nước thi đua phen này.
Nổi
bật trong ca dao hình ảnh người phụ nữ hậu phương đảm đang,
người nữ du kích với tinh thần chiến đấu kiên cường.
-Trên
trời mây trắng như bông,
Ở
giữa cánh đồng bông trắng như mây.
Những
cô má đỏ hây hây,
Ðội
bông như thể đội mây về làng.
-Chị
em du kích Thái Bình
Ca
lô đội lệch vừa xinh vừa dòn ...
Bộc
lộ trong ca dao còn là mối tình quân dân thắm thiết:
-Cụ
Hồ dân kính dân yêu,
Mà
anh bộ đội dân chìu, dân thương.
3.
Ðặc điểm nghệ thuật
Sự
kế thừa nghệ thuật và phát triển nghệ thuật ca dao cổ
truyền.
Sự
bền vững nhất của ca dao thể hiện ở yếu tố phong cách nghệ
thuật. Ở đây vẫn là những xúc cảm dạt dào, sâu lắng của ca
dao, nét mới là sự thể hiện tình yêu tổ quốc, yêu lãnh tụ, yêu
Ðảng, tình quân dân ...
Nghệ
thuật trào phúng vẫn đậm nét hướng đến đối tượng mới:
kẻ thù xâm lược, những nhân tố lạc hậu trên bước phát
triển của cuộc sống mới.
Thể
thơ truyền thống được sử dụng linh hoạt.
Kết
cấu lối đối đáp truyền thống được sử dụng với những nhân
vật trữ tình mới.
Sử
dụng lại một số câu ca dao cũ có nội dung tương đồng để
thể hiện sự so sánh, cảm nhận cuộc sống mới và cũ hoặc
chắp vần nối tiếp nhằm diễn đạt nội dung mới.