TRẺ CON TRONG THƠ XUÂN QUỲNH


        Theo tôi nghĩ, phẩm chất cơ bản làm nên đặc trưng của trẻ - đó là sự tò mò, là câu hỏi vì sao, là đòi hỏi cắt nghĩa về thế giới chung quanh. Theo năm tháng, thế giới này càng mở rộng dần biên độ từ nhỏ đến lớn, từ gần đến xa, từ cụ thể đến trừu tượng.

        Thơ Xuân Quỳnh có nhiều bài viết theo hướng này: Vì sao?, Mùa đông nắng ở đâu?, Tại sao gà con sinh ra?, rồi Chuyện cổ tích về loài người, Chuyện về những dòng nước...

        Vì sao? là dồn dập các câu hỏi, trong vô vàn câu hỏi:

Vì sao con cóc
Nó hay nghiến răng
Vì sao con còng
Nó không nhắm mắt
Không có chân có cánh
Mà lại gọi con sông
Không có lá có cành
Mà gọi là ngọn gió
Cái quạt bé như thế
Thì gió ở vào đâu
Biển ngày đêm thét gào
Sao lại không khản cổ?

        Bài thơ cứ như thế mà kéo dài, bởi thế giới tự nhiên là vô tận. Cả nhà thơ và người lớn đều biết thế. Còn các em là người đọc - lại không thể và không nên kéo dài. Bài thơ phải đến lúc dừng.

Con vịt con bé tí
Không mẹ, nó không buồn
Mà mẹ mới ra đường
Vì sao con đã nhớ.

        Từ thế giới tự nhiên, Xuân Quỳnh đã hướng các em trở về với thế giới con người. Từ câu hỏi đã chuyển sang câu xác định. Lại vẫn là sự xác định một lần nữa: tình mẹ con.

        Giải thích tự nhiên, qua cách nhìn trẻ thơ, rồi từ thế giới tự nhiên mà chuyển sang thế giới con người, mà trở về đời sống xã hội, tôi ít thấy có ai thành công như Xuân Quỳnh. Bằng xét đoán thông minh và trí tượng tượng phong phú, chị làm vui cho trẻ và làm kinh ngạc cả người lớn chúng ta:

Mí biết làm ra gió

Chỉ bằng một chiếc quạt con
Mí còn làm ra cả đêm
Chỉ cần nhắm hai con mắt

        Ðó quả là lôgic ngược - đảo nhân thành quả, nhưng lại không có chút nào phi lý.

        Cái logic ngược này đã được Xuân Quỳnh thực hiện một cách xuất sắc trong bài Chuyện cổ tích về loài người. Chuyện bắt đầu bằng hai câu:

Trời sinh ra trước nhất
Chỉ toàn là trẻ con

        Trong tư duy dân gian: trời sinh ra muôn loài. Còn với Xuân Quỳnh, sau trời là trẻ con. Trẻ con được sinh ra như là khởi nguyên của tất cả. Sau chúng, mới là sự sinh thành của tất cả những gì làm nên thế giới.

        Và thế giới, trong cách dẫn dắt của người kể cổ tích Xuân Quỳnh là gồm một trật tự các sự vật xuất hiện theo một logic chặt chẽ bên trong: do nhu cầu của trẻ mà có, gồm mặt trời, rồi cây cỏ, chim muông, sông ngòi, biển mây, đường sá...

        Rồi mới đến mẹ, vì trẻ con cần tình yêu và lời ru. Rồi đến bà, vì trẻ cần nghe chuyện. Sau bà mới đến bố, vì trẻ cần hiểu biết. Do nhu cầu hiểu biết mà sinh ra chữ, bàn ghế, thầy giáo, phấn bảng. Từ bảng mà có lớp học. Bà ở buổi học đầu tiên:

Thầy viết chữ thật to
Chuyện loài người trước hết.

        Bài thơ đến đây là kết thúc; có thể nói là kết thúc trong một trật tự ngược.

        Thế nhưng người đọc là tất cả chúng ta và các em lại không ai bất ngờ, hoặc bất bình trước sự vô lý đó. Chỉ biết thích thú về sự có lý của một chuỗi những điều phi lý. Và sự chấp nhận đó là đi ra ngoài những logic thông thường.

        Ngộ nghĩnh, hồn nhiên, thơ Xuân Quỳnh nói chính lời trẻ thơ, nghĩ cách nghĩ trẻ thơ. Rồi lại có thể tách ra khỏi trẻ thơ, để ngụ vào đấy một triết lý hồn nhiên của sự sống, thứ triết lý mà ở mỗi lứa tuổi có thể hấp thụ một cách riêng. ở đây, không có sự cao đạo, lên giọng, truyền giảng đã đành, mà cũng không phải là lối nhại mượn, bắt chước, cưa sừng làm nghé, khoác áo hoặc đeo băng trẻ con.

        Ðọc Xuân Quỳnh, thấy chị làm thơ thật dễ dàng. Cứ như là nước ngọt tuôn ra từ một mạch nguồn trong trẻo.

        Hãy xem chị làm lời Mí thích:

Chưa già mà đã có râu

Cái con dế suốt đêm thâu hát gì
Không chân con rắn vẫn đi
Con sên thích múa con ve thích gào
Con chim thích đậu cành cao
Con tàu biết gọi khi vào sân ga

        Mạch thơ cứ trôi chảy như thế cho đến Con tàu biết gọi... Từ câu thơ này, thế giới tự nhiên với dễ, rắn, chim muông... đã chuyển sang thế giới người:

Con tàu biết gọi khi vào sân ga
Con đường thì lại thích xa
Con sông thích chảy, con phà thích sang

        Ðây là thế giới người, vì sự xuất hiện những mối quan hệ mới - quan hệ tình cảm giữa con người; vì sự xuất hiện những bâng khuâng và lưu luyến chỉ có trong thế giới người. Bài thơ ấm dần lên trong khí hậu mới đó; và với người lớn chúng ta, chúng ta còn tiếp tục sự tham gia để mở rộng thêm các biên độ cho không gian và thời gian của thế giới đó. Con đường gắn với xa: "Hai vai gánh nặng con đường thời xa", "Ðường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh". Sông với chảy - Chảy đi, sông ơi! Và phà sang - Phà là gắn nối với phía bên kia. Phà không bao giờ là của một bên.

        Bài thơ kết thúc ở hai câu:

Mí thì mí thích yêu thương
Con chim, con dế, con đường, con sông.

        Lưu luyến và nhân rộng là dành cho người lớn, còn con trẻ chỉ có yêu thương. Từ con dế, con chim... đến con sông, con đường. Trong mỗi bài thơ Xuân Quỳnh viết cho các em, dường như đều có một khu vực cho nhận thức người lớn.

        Trong đời thơ không dài, nếu không nói là còn ngắn, Xuân Quỳnh vẫn để lại một gia tài thơ cho thiếu nhi như là sự kết tinh mọi trải nghiệm của đời mình. Nếu mảng thơ về tình yêu là lời nói của trái tim: "Em trở về đúng nghĩa trái tim em" thì trong thơ viết cho thiếu nhi Xuân Quỳnh đã, một lần nữa, từ tuổi thơ của chính mình mà đến với tuổi thơ của các em, như chị đã từng viết: "Là một người làm thơ cho các em, qua những đau khổ và khao khát thuở nhỏ, qua những lầm lỡ của tôi khi cư xử với các con tôi, tôi luôn luôn tự nhủ: Muốn viết cho các em, điều đầu tiên là sự cảm thông với các em chứ không phải là sự áp đặt. Ðừng bắt các em sống và nghĩ theo cách của mình. Nếu muốn giáo dục các em thì phải nhìn bằng con mắt của các em mà nhận xét đánh giá mọi việc. Cách giải quyết bắt đầu từ đấy"./.

Vân Thanh

[Kỳ trước][Trang chủ][Kỳ sau]

Chuyên mục này được cập nhật vào thứ Tư hàng tuần

Scrolll.gif (2603 bytes)


Thông tin trên mạng Netcodo
Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ tại
Ban Biên Tập Mạng Netcodo
Ðiện thoại: (54)847247 - Email Intranet: quantri@netcodo.vnn.vn

Email Internet: netcodo@hue.vnn.vn