Chương 4
HỒ
BIỂU CHÁNH
Chương 4
HỒ
BIỂU CHÁNH
I.-
CUỘC
ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA HỒ BIỂU CHÁNH:
Hồ
Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, bút hiệu là
Thứ Tiên, tự là Biểu Chánh.
Ông
sinh ngày 01 tháng 10 năm 1885.
Quê
quán : G̣ Công; sinh trưởng trong một gia đ́nh nghèo,
đông con.
Lúc
c̣n nhỏ ông đă theo học chữ nho, sau đó
lại chuyển sang học chữ quốc ngữ và
chữ Pháp. Ông thi đỗ bằng thành chung năm 1905.
Từ
năm 1906 đến năm 1941 ông đă làm việc liên
tục cho Chính phủ Pháp, bắt đầu từ
chức thông ngôn thăng dần đến chức Đốc
Phủ Sứ.
Cuối
năm 1946, ông từ giă chính trường, thật sự
sống cuộc đời hưu nhàn, giành trọn
những năm tháng c̣n lại cho sự nghiệp văn chương.
Ông
mất ngày 04 tháng 11 năm 1958 tại Phú Nhuận.
Hồ
Biểu Chánh là người rất say mê với sự
nghiệp sáng tác văn chương. Từ năm 1922
trở đi ông viết rất liên tục, đều
đặn.
Tác
phẩm của ông gồm nhiều thể loại :
truyện ngắn, thơ, tuồng cải lương, hát
bội, văn tế, tác phẩm dịch... Nhưng
những tác phẩm thuộc các thể loại kể trên
không ai c̣n nhớ đến. Người ta chỉ c̣n
nhớ đến Hồ Biểu Chánh với một
thể loại duy nhất : Tiểu thuyết.
Ông
sáng tác được 64,5 quyển tiểu thuyết nhưng
chỉ có 18 quyển ra đời trong giai đoạn 1912 -
1932 được xem là có đóng góp cho việc h́nh thành
nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Trong số đó phải kể đến các tác phẩm
tiêu biểu sau: Ai làm được, Chúa tàu Kim quy, Cay
đắng mùi đời, Nhân
t́nh ấm lạnh, Thầy thông ngôn, Ngọn cỏ gió
đùa, Chút phận linh đinh, V́ nghĩa v́ t́nh, Con nhà
nghèo, Con nhà giàu, Cha con nghĩa nặng, Khóc thầm,
Tỉnh mộng.
II.-
NỘI
DUNG TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH:
1.
Khuynh hướng hiện thực trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh : |
-
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh nhiều
mảng hiện thực khác nhau trong xă hội Nam bộ
ở những năm đầu thế kỉ XX . Được
đi nhiều nơi, có dịp tiếp xúc hạng người
trong xă hội cho nên Hồ Biểu Chánh có một vốn
sống phong phú. Đây là một trong những yếu tố
giúp tác giả thành công trong vấn đề phản ánh
hiện thực xă hội. Hiện thực cuộc sống
được đưa vào trong tác phẩm của ông
thể hiện rơ tính chất chân thật, cụ thể và
đa dạng. Ông không chỉ viết về thành thị mà
c̣n đi sâu vào cuộc sống ở nông thôn. Ông không
chỉ đề cập đến những người
thuộc tầng lớp trên trong xă hội mà c̣n bao quát
cả cuộc sống của những con người nghèo
khổ trong xă hội.
+ Ở nông thôn :
* Hồ Biểu Chánh đă
đề cập đến tầng lớp thống
trị ở nông thôn : ông đă xây dựng h́nh ảnh những ông địa
chủ độc ác, tham lam, t́m mọi cách để
ức hiếp bóc lột dân lành, làm giàu trên xương
máu người nghèo (Khóc thầm,
Con nhà nghèo). Đặc biệt, trong tác phẩm của ông không
phải tất cả địa chủ đều
gian ác, xấu xa, vẫn có những địa chủ
tốt bụng, giàu ḷng nhân ái,
sẵn sàng cưu mang giúp đỡ người nghèo
(Hội đồng Chánh trong "Khóc
thầm", Hương quản Tồn trong "Cha con nghĩa
nặng").
Bên
cạnh địa chủ, ở nông thôn Nam bộ thời
đó c̣n có một lực lượng không nhỏ bao
gồm hương chức, hội tề, những kẻ có
quyền thế ở nông thôn... chuyên cấu kết nhau
để ức hiếp dân lành vô tội. Chúng là
những kẻ tham lam, hách dịch, dùng tiền để
che dấu mọi tội lỗi và cũng v́ tiền mà
tạo ra nhiều oan trái (Cai tổng Luông trong "Thầy
thông ngôn", Hương hào Hội, Chánh hương
quản Sum trong "Cha con nghĩa nặng").
*
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh c̣n đề cập
đến tầng lớp dân nghèo ở nông thôn : Họ
bị bóc lột về kinh tế, làm lụng vất
vả quanh năm nhưng vẫn phải sống trong
cảnh đói nghèo v́ bị bọn địa chủ bóc
lột nặng nề. Nhân vật Ba Cam trong tác phẩm
"Con nhà nghèo" đă từng nói : "Làm ruộng
ở xứ ḿnh là làm mọi
cho chủ điền chứ ham làm chi" (trang 7). Cũng
v́ đói nghèo có người phải liều thân ăn
trộm nồi cám heo để cứu đói cho mẹ già
và đàn cháu nhỏ, như trường hợp của Lê
Văn Đó trong "Ngọn cỏ gió đùa", thế là
phải nhận h́nh phạt 5 năm tù. Không chỉ bị
bóc lột về kinh tế, phải sống trong nghèo đói,
người dân c̣n bị áp bức, chèn ép ở mọi lĩnh
vực. Họ là nạn nhân của dục vọng
thấp hèn của bọn địa chủ và những
kẻ có quyền thế (Con
nhà nghèo, Chúa tàu Kim quy). Họ phải sống âm thầm,
chịu đựng, không dám và không có quyền
chống lại "định mệnh" cay nghiệt
đó, nếu bất cứ một ai có tư tưởng
phản ứng lại th́ lập tức sẽ bị vùi
dập đến tận cùng.
+ Ở thành thị :
Tiểu thuyết Hồ
Biểu Chánh đă khai thác hiện thực cuộc
sống sôi động, bề bộn, với nhiều
hạng người khác nhau ở thành thị. Ông nói
đến những người thợ thuyền sống
chui rúc trong các ngơ hẽm tăm tối, nghèo nàn. Ông đề
cập đến giới thông ngôn kư lục, những
kẻ nịnh bợ Tây, sợ sệt quan trên, thích
bắt nạt dân lành, ăn chơi trác táng, ước
vọng cao sang, trọng tiền tài danh lợi xem nhẹ nhân
nghĩa (Thầy thông Phong trong "Thầy thông
ngôn"). Giới thượng lưu trí thức xuất
hiện trong tác phẩm của ông là những kẻ
sống phong lưu, thiếu thực tế (Cười gượng,
Thầy Chung trúng
số). Ngoài ra, trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh,
cuộc sống của những cô gái điếm cũng
được đề cập đến (Cô Cẩm Nhung
trong "Thầy Chung
trúng số", Cô Hai Phục trong "Nợ đời",...),
đó là những cảnh sống tạm bợ, không
có ngày mai.
-
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh một
số mặt tiêu cực trong cuộc sống
và quan hệ gia đ́nh của người dân Nam bộ.
Tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh không chỉ bàn đến
hiện thực xă hội mà c̣n khai thác những đề
tài thuộc phạm vi đời sống gia đ́nh. Xă
hội Việt Nam vào những năm đầu thế
kỉ XX đang chuyển ḿnh một cách dữ dội
để bước sang một thời kỳ mới.
Thế nhưng ảnh hưởng của phong kiến
vẫn c̣n rất nặng nề. Văn hoá phương Tây
ồ ạt tràn vào, khiến cho con người cảm
thấy bị choáng ngộp trước cái mới. Bám
lấy cái cũ của phong kiến hay đi theo cái
mới của phương Tây, đó là vấn đề
bức thiết của thời đại. Là một trí
thức tân học, Hồ Biểu Chánh có tư tưởng
dung hoà cũ - mới. Theo ông cái cũ và cái mới đều
có hay dở riêng, điều cần thiết là phải
biết chọn lọc những mặt tích cực của
nó để phát huy trong cuộc sống. Quan niệm đó
đă chi phối thế giới quan của tác giả.
Bức tranh hiện thực về những sinh hoạt quan
hệ, trong các gia đ́nh người dân Nam bộ lúc
bấy giờ vừa giúp chúng ta hiểu rơ hơn điều
nói trên, vừa chứng minh cho tính chất đa dạng,
cụ thể trong việc phản ánh hiện thực
của tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh.
Ng̣i
bút tinh tế của Hồ Biểu Chánh đă khai thác
những vấn đề được xem là quan
trọng, tạo sự quan tâm của nhiều người
trong xă hội. Ông đă bàn đến những mặt tiêu
cực trong hôn nhân gia đ́nh như cưỡng bách trong
hôn nhân (Ai làm được, Lời thề trước
miểu), vụ lợi trong hôn nhân (Nhân t́nh ấm
lạnh, Tỉnh mộng, Thầy thông ngôn), tự định
đoạt trong hôn nhân (Cười gượng), môn
đăng hộ đối (Sống thác với t́nh),
đồng tôn giáo, tục nôm vợ, đa thê.....
Ông đưa những hiện thực nói trên vào tác
phẩm không ngoài mục đích phê phán lối sống
cổ hủ, lạc hậu, khắt khe trong quan niệm
phong kiến và với ông nếu chạy theo cái mới
một cách quá tự do, thoải mái cũng không mang đến
hạnh phúc cho con người.
Bên
cạnh đó, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh
c̣n đề cập đến hiện tượng
tranh giành gia tài (Nhân t́nh ấm lạnh), mê tín dị
đoan, cảnh cưỡng hiếp, ngoại t́nh (Chúa tàu
Kim quy, Thầy thông ngôn, Cha con nghĩa nặng...). Đặc
biệt, án mạng thường xuất hiện trong tác
phẩm của Hồ Biểu Chánh (Khóc
thầm, Thầy thông ngôn, Cha con nghĩa nặng...).
-
Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh phản ánh hiện
thực trên lập trường đạo đức:
Hồ
Biểu Chánh đă tái hiện lại bộ mặt
của xă hội Nam bộ vào những năm đầu
thế kỉ XX. Ông đă phê phán những mặt trái
của xă hội trên lập trường đạo đức.
Ông hy vọng có thể dùng đạo đức để
sửa chữa mọi hành vi xấu xa của con người,
kể cả giai cấp phong kiến thống trị. Ông không
đặt ra vấn đề phải đánh đổ
giai cấp địa chủ phong kiến để
giải thoát người nông dân khỏi cảnh sống
bị bóc lột. Hiện thực cuộc sống trong tác
phẩm của Hồ Biểu Chánh dù đa dạng, cụ
thể nhưng chưa mang được tính điển h́nh.
Ông chưa tập trung vào những vấn đề nóng
bỏng nhất của thời đại - những
biến động đổi thay nhanh chóng của con người,
và xă hội trong cuộc sống trên con đường tư
sản hóa. Chính v́ vậy hiện thực trong tiểu
thuyết Hồ Biểu Chánh c̣n mang tính chất
"nửa vời".
Khuynh
hướng đạo đức đă chi phối
mạnh mẽ nội dung tiểu thuyết Hồ Biểu
Chánh. Mục đích phản ánh hiện thực xă hội
cũng nhằm để thể hiện quan niệm đạo
đức của tác giả. Khuynh hướng đạo
đức thể hiện ngay từ tên của tác
phẩm, nào là "V́ nghĩa v́ t́nh", nào là "Cha
con nghĩa nặng", nào là "Dây oan",... Đi vào
nội dung cụ thể, chúng ta sẽ nhận ra những
tác phẩm của Hồ
Biểu Chánh, những vấn đề thuộc về
đạo lư được tác giả bàn đến
nhiều, như chữ trung (Ngọn cỏ gió đùa,
Nặng gánh cang thường), chữ hiếu (Cay đắng
mùi đời, Chút phận linh đinh, Cha con nghĩa
nặng), chữ tiết (Thầy
thông ngôn, Cười gượng), chữ nghĩa (Ai làm
được, Chúa tàu Kim quy). Những yếu
tố đạo lư được nói đến đă
thể hiện sự dung ḥa cũ - mới. Hồ Biểu
Chánh chủ trương phát huy mặt tích cực của
đạo đức phong kiến và tiếp nhận
những mặt tiến bộ của lối sống
tự do.
Ngoài
ra, Hồ Biểu Chánh c̣n xây dựng trong tác phẩm
của ông một hệ thống nhân vật gồm hai
loại người khác nhau. Một bên là đại
diện cho cái thiện và một bên là đại diện
cho cái ác. Cái thiện bao giờ cũng chiến thắng và
cái ác luôn bị trừng trị nghiêm khắc. Ông có ư
định dùng quan niệm đạo lư của dân gian
"Thiện ác đáo đầu chung hữu báo" để
giáo dục con người, như ông đă từng nói
trong "Đời của tôi về văn nghệ":
"Viết tiểu thuyết để cảm hoá
đặng lần lần dắt quần chúng trở
về đường chánh đại quang minh" .
Với mong muốn đó, nhiều khi Hồ Biểu Chánh
đă không ngần ngại đưa cả những
giảng giải luân lư của tác giả vào trong tác
phẩm.
III.-
NGHỆ
THUẬT TIỂU THUYẾT CỦA HỒ BIỂU CHÁNH:
1. Ngôn ngữ : |
Ngôn
ngữ trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh mang tính
giản
dị, b́nh dân, dễ hiểu. Ông sử dụng nhiều
từ địa phương (từ địa phương
Nam bộ).
Đôi
khi ngôn ngữ trong sáng tác của ông cũng c̣n mang tính
cầu kỳ, bóng bẩy. Ví dụ : "Lửa t́nh
muốn cất ngọn, Sóng ái muốn bủa ṿi" (Chúa
tàu Kim quy). Dùng từ không hợp nghĩa, đó cũng là
một hạn chế phổ biến trong tiểu thuyết
Hồ Biểu Chánh.
2. Kết cấu : |
Hồ
Biểu Chánh chịu ảnh hưởng nặng nề
của tiểu thuyết truyền
thống trong vấn đề xây dựng kết cấu.
Ông thường sắp xếp các t́nh tiết theo trật
tự thời gian. Kết thúc tác phẩm phần lớn là
có hậu. Thậm chí lối kết thúc tác phẩm
của ông thường đầy đủ quá nên không
gợi được sự tưởng tượng nơi
độc giả. Cách chuyển mạch của Hồ
Biểu Chánh c̣n rất vụng về, tiếp nối quá
thật thà nếu không muốn nói là "quê". Tác
giả lại thường đưa vào những đoạn
văn có nội dung giảng giải, bàn luận dài ḍng
về luân lư làm cho câu chuyện giảm phần hứng
thú. Tuy nhiên, so với tác phẩm của Nguyễn Bá
Học, Phạm Duy Tốn đă có phần giảm hơn.
3.
Nhân vật : |
Hồ
Biểu Chánh đưa vào tác phẩm của ông một
thế giới nhân vật rất đa dạng, phong phú,
thuộc đủ hạng người khác nhau trong xă
hội. Nhân vật của ông không c̣n mang tính chất
ước lệ, mà đă có những nét riêng, thể
hiện cho từng loại người khác nhau. Ông chú ư
đến ngoại h́nh và hành động của nhân
vật nhiều hơn. Ông có cố gắng phân tích tâm lư
nhân vật nhưng c̣n vụng về, chủ yếu là
kể lại những suy nghĩ của nhân vật. Sự
chuyển biến về tâm lư của nhân vật nhiều
khi quá nhanh chóng, đột ngột, không phù hợp
với qui luật t́nh cảm của con người.
Nhân
vật trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh mỗi vai
là tiêu biểu cho một hạng người: tốt
hoặc xấu, thiện hoặc ác. Người tốt th́
tốt từ đầu đến cuối, người
xấu cũng thế. Hay ít ra th́ đến hồi chung
kết mới biết ăn năn. Điều này khiến
cho nhân vật không có vẻ thực. Nhà văn cần
tạo ra những con người có đủ tính tốt,
xấu của con người.
Hồ
Biểu Chánh có lối hành văn rất tự nhiên. Nghĩ
sao viết vậy, viết như nói. Bàn về văn phong
của Hồ Biểu Chánh, Thanh Lăng cho rằng ông là người
đầu tiên làm cách mạng, v́ đă đập vỡ
cái khuôn khổ văn chương đài các
đương thời. Ông đă tiếp nối cách
viết văn chương trơn tuột như lời nói
đă có từ Trương Vĩnh Kư, Huỳnh Tịnh
Của trong "Truyện giải buồn", Nguyễn Chánh
Sắc trong "Nghĩa hiệp kỳ duyên". Ông
vẫn c̣n chịu ảnh hưởng của lối văn
biền ngẫn, câu văn của Hồ Biểu Chánh thường
có tính sóng đôi.
5.
Chi tiết đời thường : |
Ông
đă mang những chi tiết vụng vặt của
cuộc sống đời thường đưa vào tác
phẩm. Ví dụ : H́nh ảnh con chó phèn lè lưỡi
giữa trưa hè, cô gái đứng cạnh cầu ao phun
nước bọt xuống cho cá đớp,....
Tác
giả thường vận dụng cốt truyện
của một số tác phẩm văn học phương
Tây để viết về cuộc sống và con người
Việt Nam. Các tác phẩm : Cay
đắng mùi đời, Chút phận linh đinh, Ngọn
cỏ gió đùa, Chúa tàu Kim quy đều được
dựa theo tiểu thuyết phương Tây.
Hồ
Biểu Chánh là một nhà văn lớn ở miền Nam.
Ở một chừng nhất định tiểu thuyết
của ông đă đạt được giá trị
hiện thực. Hồ Biểu Chánh đă đi tiên phong và
lập công đầu trong việc đưa tiểu
thuyết mới từ t́nh trạng phôi thai đến giai
đoạn trưởng thành. Tiểu thuyết Việt Nam
từ Hồ Biểu Chánh mới bắt đầu
những bước đi vững chắc. Ông là một tác
giả quan trọng ở giai đoạn 1912 - 1932.