Chương 3
TẢN ĐÀ
I.- CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TẢN ĐÀ
1.
Cuộc đời : |
Tản
Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu. Ông sinh ngày 08
tháng 5 năm 1888, ở làng Khê Thượng, huyện
Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Ông
xuất thân từ một gia đ́nh thuộc ḍng dơi phong
kiến quí tộc. Cha là Nguyễn Danh Kế, từng làm
quan đến Án sát, Ngự sử, Anh cả là Nguyễn
Tái Tích đỗ phó bảng, làm Đốc học, sau tham
gia ban Tu thư, làm Hiệu trưởng trường Qui
Thức, là những tổ chức do Pháp lập ra để
đối phó vào phong trào Đông Kinh nghĩa thục. Mẹ
ông là một cô đào hát có tài có sắc, lấy lẽ
Nguyễn Danh Kế lúc ông làm Tri phủ Lư Nhân. Từ lúc
nhỏ Nguyễn Khắc Hiếu đă theo cha và anh
sống ở những nơi họ làm việc, ở Nam Định,
Sơn Tây, Vĩnh Yên.
Tản
Đà từng theo học chữ nho. Ông cũng là một trong
những học tṛ đầu tiên của trường Qui
Thức. Ông đi thi măi nhưng không đỗ đạt
ǵ cả.
Ông
là một nhà nho rờii nông thôn ra thành thị. Cuộc
sống thành thị lúc bấy giờ đă ảnh hưởng
đến tư tưởng, t́nh cảm và thái độ
trước cuộc sống hiện tại của ông.
Ông
là người đầu tiên đă mạnh dạn bước
vào một nghề mới: Nghề viết văn, xem
việc sáng tác như một cách kiếm sống "Nôm
na phá nghiệp kiếm ăn xoàng".
Ông từng tham gia vào hoạt động báo chí: làm
chủ bút cho tờ Hữu Thanh, thành lập tờ An
Nam tạp chí. Tản Đà
mất ngày 07 tháng 6 năm 1939 ở Ngă Tư Sở trong
cảnh nghèo nàn, túng thiếu.
2.
Sự nghiệp sáng tác : |
Tản
Đà bắt đầu sáng tác từ năm 1913. Đến năm
1915 ông mới bắt đầu công bố tác phẩm
của ḿnh trên tờ Đông Dương tạp chí"
Tác phẩm của ông
gồm nhiều thể loại :
-
Tác phẩm phiên dịch : Đại học, Đàn bà Tàu, Kinh
thi, Liêu trai chí dị.
-
Tác phẩm luận thuyết : Khối t́nh bản chính,
Khối t́nh bản phụ,
Đài gương.
-
Thơ : Lên sáu, lên tám, Khối t́nh con I, II
-
Tiểu thuyết và truyện ngắn : Giấc mộng con,
Giấc mộng lớn, Thề
non nước, Trần ai tri kỷ, Kiếp phong trần.
-
Kịch : Thần tiền.
Lúc
sinh thời Tản Đà rất tự hào về văn xuôi
của ḿnh, ông từng nói : "Văn đă
nhiều thay lại lắm lối. Thế nhưng độc
giả, những người nghiên cứu lại đánh
giá cao những tác phẩm thơ của ông.
II.- NỘI DUNG VĂN THƠ CỦA TẢN ĐÀ:
Tản
Đà là một nhà nho đứng ngoài cuộc đấu
tranh cứu nước của dân tộc lúc bấy
giờ. Tuy nhiên, ở ông vẫn tiềm tàng một t́nh yêu
quê hương đất nước thiết tha. Tản
Đà không nâng ḷng yêu nước của ḿnh tới mức
độ có thể xông vào chiến trận, cùng đồng
bào cả nước đánh đuổi kẻ thù xâm lược
nhưng Tản Đà luôn có ư thức lo đời và mong
muốn được giúp đời. Tản Đà thường
thắc mắc và cảm thấy lo âu trước t́nh
trạng lạc hậu đáng sơû về kinh tế, xă
hội của đất nước.
"Tính
năm sinh đă 4000 ngh́n dư
Bước
tiến hóa lừ đừ sau mọi kẻ".
(Bài hát chúc báo sống)
Ông
rất đau xót khi nhận ra sự suy tàn của Hán
học, lo lắng cho đạo đức thánh hiền
sẽ có ngày đi đến chỗ bị tiêu vong
(Hủ nho lo việc đời). Trước thực
trạng của đất nước, Tản Đà cất
lời than năo nuột :
"Giời
chưa mở mắt biết mai sau thế nào
(Sẩm chợ)
Ông
luôn tiếc nuối quá khứ vàng son của dân tộc. Bài
"Con quốc và con
chẫu chuộc" đă thể hiện điều này
:
"Bờ
ao trên bụi có con quốc
Ở
dưới lại có con chẫu chuộc
Hai
con cùng ở cùng hay kêu
Một
con kêu thảm một con kêu nhuốc
Chuộc
kêu đắc ư gặp tuần mưa
Quốc
kêu đau ḷng thương xuân qua
Cùng
một bờ ao, một bụi rậm
Phong
cảnh không khác t́nh khác xa".
Ông nhớ về những
chiến công hiển hách của tổ tiên
"Ôi
! Lư Trần Lê đâu mất cả
Mà
thấy hươu nai đứng đỉnh chơi".
(Chơi trại hàng hoa)
Có
những lúc ông c̣n công nhiên ca ngợi những người
anh hùng dân tộc đương thời (viếng Đ́nh Công
Tráng). Ông đă tỏ rơ thái độ căm thù đối
với những kẻ bán nước, làm tay sai cho
giặc. Ông từng làm thơ mỉa mai Hoàng Cao Khải.
"Hoạ
mi, ai vẽ nên mi ?
Trông
mi mi đẹp, hót th́ mi hay
Ai
đưa mi đến chốn này ?
Nước
trong gạo trắng mi ngày ăn chơi
Lồng
son cửa đỏ thảnh thơi
Mi
bay mi nhảy sướng đời nhà mi
Nghĩ
cho mi cũng gặp th́
Rừng
xanh mi có tiếc ǵ nữa không".
(Chim hoạ mi trong lồng)
Ông
châm biếm những kẻ theo giặc :
"Anh
tiếc cho em phận gái má đào
Tham
đồng bạc trắng mà gán ḿnh cho chú Tây đen"
(Cô Tây đen)
Với
ư thức lo đời và mong muốn đóng góp cho đời
Tản Đà luôn đi t́m giải pháp cứu nước. Để
thực hiện được việc lớn Tản Đà
đă đi t́m người đồng chí cùng với ḿnh
gánh vác trọng trách đối với non sông nhưng t́m
măi mà không thấy.
Biết
người tri kỉ đâu đây mà t́m"
(Vô đề)
Trước
hoàn cảnh hiện tại của đất nước,
Tản Đà nhận thấy cần phải có sức
mạnh của đoàn kết mới có thể xoay trở
được t́nh thế, cho nên ông đă cất lời
kêu gọi.
"Lúc
thủy tai, này ai ơi !
Quư
tiếc thương yêu lấy giống ṇi
Con
cháu rồng tiên khi đă bỉ
Tản
Đà đă đưa ra chủ trương cứu nước
bằng con đường phát triển kinh tế tư
bản chủ nghĩa. Ông rất tin vào giải pháp này.
Trong bài viết "Một cuộc đấu tranh của người An Nam sẽ
khởi đầu từ năm Đinh Măo" đă thể
hiện rơ nhiệt t́nh và sự tin tưởng
của ông: "Hỡi quốc dân An Nam, nước An
Nam từ năm Đinh Măo này trở về trước, cái
hay cái dở có chép ở sử sách, chúng ta đều
đă biết, nước An Nam từ năm Đinh Măo
trở về sau, chúng ta chưa biết ra sao vậy. Cái
vận mạng của nước ta sau này hay dở
hoặc nhiên có tiền định, thế nào chúng ta cũng
phải hết sức tiến thủ, tức như trong nhà
có bố mẹ ốm không thể tính số vận, mà
kiếm thuốc là cần". Phương thuốc mà
Tản Đà nói ở chính là phổ biến khoa học
kỹ thuật tiên tiến, là phát triển kinh tế tư
bản chủ nghĩa.
Bên
cạnh đó, Tản Đà c̣n đưa ra thuyết thiên lương
với mục đích cứu đời: Ông cho rằng xă
hội loạn lạc, nền đạo đức phong
kiến bị suy thoái là bởi thiên lương của
con người đă bị đánh mất. Ông tự
nhận là người được trời sai xuống
trần gian, mang thiên lương đến nhân loại
nhằm cứu nguy cho xă hội.
"Trời
rằng không phải là trời đày
Trời
định sai con một việc này
Là
việc thiên lương của nhân loại
Cho
con xuống thuật cùng đời hay"
Tản
Đà không nâng ḷng yêu nước của ḿnh tới mức
độ có thể xông vào cuộc đấu tranh cho
đất nước nhưng Tản Đà cũng tỏ ra có
một nỗi lo lắng muốn giúp ích cho đời,
mặc dù nỗi lo lắng đó không đi đến
đâu, thậm chí c̣n đầy mâu thuẫn. Nỗi lo
lắng của Tản Đà thể hiện ở ư thức
muốn muốn đem tài văn chương của ḿnh ra
giúp đời, muốn làm cho văn chương của ḿnh
"Có bóng mây hơi nước đến dân xă"
(Giấc mộng con I). Tờ An Nam tạp chí ra đời
cũng để thực hiện chí hướng ấy.
Vốn là đồ đệ của Khổng, Mạnh,
Tản Đà muốn dùng đạo đức phong kiến
cứu văn xă hội đang trụy lạc trước
mắt. V́ thế ông đă viết Đài gương,
dịch Đài gương truyện, viết lên sáu, lên tám,
nhằm củng cố trật tự gia đ́nh để
đi đến củng cố trật tự xă hội.
Tản
Đà là một người có chí hướng, hoài băo
lớn, nhưng hoàn toàn bất lực. Tất cả
những giải pháp của ông đều không đưa
đến kết quả tốt đẹp. Cuối cùng ông
chỉ c̣n có thể tưởng tượng về
một xă hội lư tưởng. "Cơi đời
mới" của Tản Đà trong "Giấc mộng con
II" không có chợ búa, không có tiền bạc, cảnh
sống rất vui, "Không có sự thiên tai, không có
sự địa biến, không có sự
trộm cướp, không có sự án tù, không có sự
kiện cáo, không có sự buôn danh bán lợi không có câu
thế thái nhân t́nh. Ngoài sự lo ăn lo dùng, chỉ chuyên
ư suy cầu nhẽ tiến hóa". Đây là một bằng
chứng Tản Đà là một người luôn ôm ấp
trong ḷng giấc mơ tốt đẹp về cuộc
đời, cũng có thể xem đó là một nét lăng
mạn tích cực.
Nh́n
chung, Tản Đà có một tinh thần dân tộc cao,
được thể hiện ở ḷng yêu nước,
nỗi lo đời của ông. Có điều những t́nh
cảm ấy c̣n mang tính chung chung, mơ hồ. Hơn
nữa, Tản Đà cũng không dám nói thẳng mà Tản
Đà thường phải ngụy trang bằng nhiều h́nh
thức khác nhau, khi nói về tấm ḷng của ḿnh đối
với quê hương đất nước. Tản Đà cũng
là một người có nhiều mâu thuẫn trong tư tưởng,
ḷng yêu nước của ông thể hiện chưa
thật rơ ràng và nhất quán.
2.1- Một số biểu hiện của tư tưởng
lăng mạn thoát ly :
Lăng
mạn thoát ly là khuynh hướng chủ yếu trong thơ
văn Tản Đà. Ông xuất thân từ tầng lớp
phong kiến đang thời suy thoái. Bản thân sống
ở thành thị, gần gũi với tầng lớp
tiểu tư sản bất lực lưng chừng, ông
lại đứng ngoài các cuộc đấu tranh của
dân tộc. Cuộc đời ông phải trải qua
nhiều thất bại, éo le nên tư tưởng trở
nên tiêu cực thoát ly, điều này được
thể hiện qua nhiều khía cạnh.
Thơ
văn Tản Đà nói nhiều đến chữ sầu:
Tản Đà đă xướng lên một nỗi buồn
đặc biệt, lăng mạn. Cái buồn của Tản
Đà là nỗi buồn thầm kín, như nằm tận
đáy sâu của ḷng người có thể bật
dậy bất cứ lúc nào. Nó không sầu năo, tang tóc nhưng
da diết, khó nguôi. Tản Đà buồn bởi các nguyên nhân
:
+ Buồn về thân
phận tài t́nh của ḿnh, của những người cùng
cảnh ngộ :
"Ngắn
dài sáu lớp mươi câu hát
Vui
khóc năm canh một cuộc đời
Cũng
muốn thôi đi thôi chửa dứt
Tài
t́nh lụy lắm bạn t́nh ơi !"
(Đề tuồng Tây Thi)
+
Buồn v́ thời thế thay đổi, ông lại
bất lực trước hoàn cảnh, mộng giúp đời
không thành.
-
Thơ văn Tản Đà nói nhiều đến chữ t́nh.
Tản Đà thường viết về nỗi ḷng của
một kẻ cô đơn, bơ vơ, khao khát yêu thương.
Thơ văn ông thường đề cập đến
t́nh yêu đôi lứa, kiểu t́nh yêu thật sự lăng
mạn. Đó không phải là t́nh vợ chồng, t́nh yêu
trong tác phẩm của ông không đi đến hôn nhân.
Ông thường nói đến t́nh yêu ban đầu dang
dở. Ông kể lại những kỉ niệm về t́nh
yêu, những đau khổ trong t́nh yêu... Nói chung, t́nh yêu
trong sáng tác Tản Đà là t́nh buồn, t́nh sầu, t́nh hoài
nhớ. Đó cũng chính là những nội dung phổ
biến của văn học lăng mạn tư sản. Đây
là lần đầu tiên trong văn học Việt Nam,
một nhà nho đă cất bút viết về những
mối t́nh của ḿnh, những diễn biến, những
cảm nghĩ về t́nh yêu... Viết để lưu
lại h́nh bóng cũ, măi măi không thể phai mờ
được, để ghi nhớ những gương
mặt thân thương...
-
Tản Đà sống bằng tưởng tượng
nhiều hơn bằng hiện thực. Thơ văn ông cũng
nói nhiều đến chữ mộng. Ông mộng
được lên trời để hầu chuyện
Ngọc Hoàng thượng đế, mộng đi khắp
năm châu thế giới gặp toàn những vĩ nhân và
mĩ nhân, mộng được làm bạn với
những người đẹp.
"Giấc
mộng mười năm đă tỉnh rồi
Tỉnh
rồi lại muốn mộng mà chơi".
-
Tản Đà quan niệm đời là một bể khổ nên
t́m mọi cách để trốn đời, ông lao vào con
đường hành lạc. Trước tiên là t́m đến
với rượu :
"Cảnh
đời gió gió mưa mưa
Buồn
trông ta phải say sưa đở buồn".
Rượu
vào th́ thi hứng bắt đầu được khơi
dậy, cho nên ở Tản Đà rượu thường
đi liền với thơ:
"Trời
đất sinh ta rượu với thơ
Không
thơ không rượu sống sinh thừa".
Nhưng
rồi rượu với thơ cũng không làm vơi
đi được nỗi buồn của Tản Đà. Chán
chường quá ông lại muốn thoát lên cơi tiên, cơi
phật, xa lánh trốn trần ai đầy khổ ải
này (Muốn làm thằng Cuội, Hầu trời, Tống
biệt...).
Tản
Đà c̣n t́m nguồn vui ở thú đi chơi, ông đi
rất nhiều nơi, biết nhiều chỗ. Và với
ông mỗi điểm dừng chân đều in lại
những kỉ niệm khó quên (Thú ăn chơi).
2.2- Đặc điểm
của tư tưởng lăng mạn thoát ly trong thơ văn
Tản Đà :
-
Lăng
mạn thoát ly nhưng không quay lưng lại với
cuộc sống :
Tản
Đà v́ gặp cảnh ngộ éo le, thất chí nên t́m cách
lánh đời, coi đời là cơi tục là nơi ở
trọ. Nhưng Tản Đà thoát ly mà không thoát tục.
Tản Đà chủ trương trốn đời nhưng
lại muốn nhập thế. Ở ông có sự giằng
xé giữa chán đời và gánh lănh trách nhiệm. Ông có
ư định trốn đời để quên đời,
mượn thú nhàn tản để t́m sự thanh
thản cho tâm hồn nhưng cuối cùng đă không quên
được và luôn phiền năo, lo lắng cho cuộc
đời.
-
Cái tôi lăng mạn có tư tưởng thoát ly vẫn c̣n
bị chi phối bởi ư thức hệ phong kiến: Tư
tưởng thoát ly của Tản Đà gắn liền
với ư thức muốn đứng ra ngoài cuộc đời
nhơ bẩn để giữ lấy thanh cao trong sạch
cho ḿnh :
"Trung
hiếu vẹn toàn hai khối ngọc
Thanh
cao phô trắng một nhành mai
Bạc
tiền gió thoảng thơ đầy túi
Danh
lợi bèo trôi rượu nặng vai".
(Tự vịnh)
Tản
Đà sống vào thời kỳ xă hội trên con đường
tư sản hóa, nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
chi phối mạnh mẽ sinh hoạt của con người,
chủ nghĩa cá nhân được công nhiên bộc
lộ. Cho nên nội dung thoát ly của Tản Đà in
dấu vết của thời đại. Hưởng
lạc của Tản Đà bắt đầu bê tha, chủ
nghĩa cá nhân bộc lộ rơ. Tuy nhiên, Tản Đà chưa
bị sa vào trụy lạc, chưa hủy hoại thể
xác và tinh thần như một số tác giả của văn
học lăng mạn ở giai đoạn 1939 - 1945. Ở
Tản Đà trong cái tôi thoát ly hưởng lạc vẫn c̣n
bóng dáng của cái ǵ thuộc nề nếp đạo
đức phong kiến (Giấc mộng con, Thề non nước...).
III.- NGHỆ THUẬT THƠ VĂN TẢN ĐÀ
1.
Vận dụng một số thành tựu nghệ
thuật của văn học dân gian : |
-
Thể loại : Các làn điệu xẩm, lư, chèo, ca
cổ bản, các thể loại dân ca ở cả
miền Bắc lẫn miền Trung đều được
Tản Đà chú ư khai thác. Sự am hiểu dân ca làm cho
Tản Đà viết phong thi và ca khúc đạt tŕnh độ
nghệ thuật rất cao. Rất nhiều bài ca dao
của Tản Đà trở thành tác phẩm văn học dân
gian, lưu hành khá rộng răi trong quần chúng. Tản
Đà gọi ca dao của ḿnh là phong thi.
-
Ngôn ngữ : Tản Đà đă học tập cách sử
dụng ngôn ngữ của văn học dân
gian, tạo cho ngôn ngữ trong sáng tác của ông có tính
giản dị, tự nhiên. Ông c̣n đưa lời ăn
tiếng nói của quần chúng vào trong tác phẩm. Có
thể thấy rơ thơ của Tản Đà được
sáng tác với ngôn ngữ của văn học dân gian,
với chất liệu nghệ thuật mà người lao
động đă dùng. Ngôn ngữ trong thơ Tản Đà là
ngôn ngữ của ca dao, hát ru, hát ví...
-
Tản Đà c̣n vận dụng một số công thức
trong ca dao. Ví dụ : "Gió đưa",
"Con c̣"...
"Gió
đưa thầy khóa sang sông
Để
em trông thấy trong ḷng ngẩn ngơ".
hoặc
"Con
c̣ lặn lội bờ ao
Phất
phơ đôi dải yếm đào gió bay
Em
về giục mẹ cùng thầy
Cắm
sào đợi nước biết ngày nào trong ?"
Ảnh
hưởng của văn học dân gian trong thơ Tản
Đà rất đậm. Có nhiều câu thơ đă bám sát
vào các câu hát, ví của văn học dân gian.
Câu ví : Hỡi cô yếm trắng ḷa ḷa
Sao cô không bảo mẹ già nhuộm thâm.
Tản Đà : Hỡi cô yếm trắng kia là
Chồng cô, cô bỏ ở
nhà đi chơi.
-
Tản Đà đă sử dụng các thể loại sáng tác
của văn chương trung đại trên tinh thần cách
tân. Ông là người thể hiện đầy đủ
và thành công phương hướng giải quyết
của thời đại.
Chính
ông đă tuyên bố :
"Đờn là đờn, thơ là thơ
Thơ thời có chữ, đờn có tơ
Nếu không phá cách vứt điệu luật
Khó cho thiên hạ đến bao giờ ".