Chương 2
PHAN BỘI CHÂU
Chương 2
PHAN
BỘI CHÂU
I.- CUỘC ĐỜI VÀG SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC:
1.
Cuộc đời : |
Phan
Bội Châu trước đó tên là Phan Văn San, sau v́ trùng
tên với Vua Duy Tân (Vĩnh San) mới đổi thành Phan
Bội Châu (Bội : đeo; Châu : Ngọc Châu). Phan Bội
Châu có biệt hiệu là Sào Nam (lấy từ câu Việt
Điểu Sào Nam Chi"), tỏ
ư luôn thiết tha với quê hương đất nước.
Ông c̣n có một tên hiệu khác là Thị Hán, ngụ
ư là hảo hán, một đấng nam nhi lỗi lạc
ở đời. Khi viết bài "Pháp Việt đề
huề chính kiến thủ" ông lại kư tên là Độc
Tỉnh Tử.
Ông
sinh ngày 26 tháng 12 năm 1867, tại Huyện Nam Đàn,
Tỉnh Nghệ An. Thân sinh của ông là ông Phan Văn
Phổ, một bậc thâm nho, thông hiểu kinh truyện nhưng
không đỗ đạt ǵ cả, suốt đời
đeo đuổi nghề dạy học. Mẹ của ông
là Bà Nguyễn Thị Nhàn, cũng xuất thân từ
một gia đ́nh thuộc ḍng dơi nho học. Bà là một
người phúc hậu, thường hay giúp đỡ
những người nghèo khổ.
Phan
Bội Châu đă theo học chữ nho, ông đậu
giải Nguyên kỳ thi hương năm Canh Tư (1900). Khác
với các nho sĩ thời phong kiến, Phan Bội Châu không
xem việc thi cử đỗ đạt là một phương
tiện để tiến thân mà ông chỉ coi đó là
một cơ hội thuận lợi cho hoạt động
chính trị. Cho nên sau khi thi đậu, Phan Bội Châu
đă thoát ly gia đ́nh, lao hẳn vào con đường
hoạt động cách mạng. Ông là người đă
gây dựng phong trào cách mạng theo xu hướng dân
chủ tư sản ở đầu thế kỉ XX. Và ông
cũng là người có ư thức dùng văn chương
để phục vụ cho hoạt động chính
trị.
Đầu
năm 1904, Phan Bội Châu
cùng với Cường Để và hơn 20 đồng chí
nữa họp tại nhà riêng của ông Nguyễn Hàm, bí
mật lập ra một tổ chức yêu nước, theo
kiểu hội kín, sau này gọi là Duy Tân hội. Cường
Để được cử làm Hội chủ. Đầu năm
1905, theo kế hoạch của Duy Tân hội, Phan Bội Châu
xuất dương sang Nhật. Ông nhận trách nhiệm
tổ chức phong trào Đông Du. Đây là giai đoạn đắc
ư nhất của ông. Thời gian này ông cũng sáng tác
được nhiều tác phẩm gửi về nước.
Lời văn thống thiết, khích lệ của tác
giả đă thức
tỉnh được ḷng yêu nước của nhiều
người dân lúc bấy giờ. Nhiều người dân
đă tích cực ủng hộ phong trào Đông Du bằng
nhiều h́nh thức khác nhau. Do dă tâm của đế
quốc Nhật và âm mưu thâm độc của thực
dân Pháp, tháng 3 năm 1909 tổ chức Đông Du bị
giải tán, ông bị trục xuất khỏi nước
Nhật, phải chạy trốn sang Trung Quốc, rồi Thái
Lan.
Về
sau ông đă đứng ra thành lập "Việt Nam quang
phục hội". Ngày 24 tháng 12 năm 1913, ông bị
bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam, đến năm
1917 mới được ra tù. Tổ chức yêu nước
do Phan Bội Châu đứng ra lănh đạo càng về
sau càng gặp nhiều khó khăn, tổn thất. Mặc
dù ḷng yêu nước rất sâu và nhiệt t́nh cứu nước
rất cao nhưng Phan Bội Châu không làm cách ǵ để
thay đổi được t́nh thế. Ông đă
cải tổ "Việt Nam quang phục hội", thành
lập "Việt Nam quốc dân Đảng" nhưng chưa
kịp thực hiện những mong ước lớn th́
ông đă bị bắt vào năm 1925. Kẻ thù định
thủ tiêu ông nhưng việc bị bại lộ. Chúng
buộc phải tha ông do gặp phải sự kháng cự
mạnh mẽ của dân ta. Chính quyền thực dân
bắt ông phải về sống ở Huế. Từ năm
1926 về sau, Phan Bội Châu sống trong cảnh "cá
chậu chim lồng", mật thám luôn ŕnh rập, theo dơi
ông. Kể từ đó xem như ông đă bị đoạn
tuyệt hẳn với hoạt động chính trị.
Thời gian này công việc duy nhất của ông là sáng tác.
Nhiều tác phẩm được ra đời vào
những năm cuối đời của Phan Bội Châu.
Phan Bội Châu mất ngày 20 tháng 10 năm 1940.
Có
ba thời kỳ sáng tác :
-
Thời kỳ đầu : Trước khi ra nước ngoài,
Phan Bội Châu có viết một số tác
phẩm, trong số đó có những tác phẩm tiêu
biểu : Hịch B́nh Tây thu Bắc, Lưu Cầu
Huyết Lệ Tân Thư, Song Tuất lục.
-
Thời kỳ thứ hai : Thời gian hoạt động
ở nước ngoài Phan Bội Châu sáng tác
rất nhiều tác phẩm và gửi về nước, tiêu
biểu như: Hải ngoại huyết thư, Việt Nam vong
quốc sử, Tân Việt Nam, Khuyến quốc dân tu
trợ du học văn.
-
Thời kỳ thứ ba : Đây là thời kỳ ông bị
giam lỏng ở Huế, số lượng tác phẩm ra
đời trong giai đoạn này rất lớn nhưng
lại không được đánh giá cao về chất lượng.
Tác phẩm "Phan Bội Châu niên biểu" được
xem là có giá trị nhất. Bên cạnh đó phải
kể đến Nam Nữ quốc dân tu tri, Thuốc
chữa dân nghèo, Cao đẳng quốc dân, Lời hỏi thanh niên,
Luân lư vấn đáp và hơn 800 bài thơ Nôm các
loại, mấy chục bài phú, văn tế, tạp văn.
II.-
NỘI
DUNG THƠ VĂN PHAN BỘI CHÂU:
1. Thơ văn Phan Bội Châu thể hiện tư tưởng yêu nước tiến bộ : |
Do
điều kiện thực tế của lịch sử
ở Việt Nam, cuộc đấu tranh v́ con người
trước hết là cuộc đấu tranh giành và
giữ độc lập, cho nên văn học Việt Nam
luôn đề cập đến truyền thống yêu nước.
Tùy theo từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
sự thể hiện truyền thống yêu nước có
khác nhau. Khi chế độ thực dân nửa phong
kiến h́nh thành, dân tộc ta đứng trước
một t́nh h́nh mới: Muốn là yêu nước th́
phải đấu tranh giải phóng dân tộc, mà muốn
giải phóng dân tộc th́ phải duy tân, chống phong
kiến, dân chủ hoá đất nước, hiện
đại hoá đất nước và cuối cùng ḥa vào
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế
giới đấu tranh cho chủ nghĩa xă hội. Đầu
thế kỉ XX nhiều nhà nho yêu nước đă bước
đầu nhận ra con đường đó. Họ
đưa tư tưởng yêu nước, duy tân vào văn
chương tạo thành một phong trào văn học khác
trước, phân biệt với văn chương yêu nước
thời trung đại. Phan Bội Châu là người sáng
tác nhiều nhất, trong thời gian liên tục và lâu
nhất. Phan Bội Châu đă làm cho văn học yêu nước
có nội dung dân tộc dân chủ cao hơn, có tính
chiến đấu, tính nhân đạo cao hơn. Thơ văn
yêu nước của Phan Bội Châu tiêu biểu cho
một giai đoạn văn học mới, giai đoạn
đầu của thời kỳ văn học hiện
đại.
Yêu
nước là một nội dung chủ yếu của văn
học Việt Nam. Kể từ khi h́nh thành nền văn
học viết, nội dung ấy không ngừng phát
triển và ngày càng mang nhiều sắc thái mới. Đến
với thơ văn yêu nước của Phan Bội Châu,
chúng ta sẽ được thấy rơ điều đó.
-
Tinh thần yêu nước trong thơ văn Phan Bội Châu
được thể hiện một cách cụ thể,
gần gũi :
Khi
nói về đất nước các nhà nho xưa thường
có những lúng túng do họ c̣n bị câu nệ bởi
những quan niệm cũ, quan niệm "Xă tắc"
siêu h́nh. Phan Bội Châu tuy c̣n chịu ảnh hưởng
ít nhiều của quan niệm phong kiến nhưng ông
đă biết phá bỏ những cái lạc hậu. T́nh yêu
quê hương đất nước ở ông được
thể hiện bằng những t́nh cảm b́nh thường,
gần gũi nhưng rất sâu sắc. Đó là :
+
T́nh cảm của con người trước cái đẹp
của quê hương đất nước :
"Nay
ta hát một thiên ái quốc
Yêu
ǵ hơn yêu nước nhà ta
Trang
nghiêm bốn mặt sơn hà
Ông
cha để lại cho ta lọ vàng
Bốn
ngàn năm dăi gió dầm mưa
Biết
bao công của người xưa
Gang
sông tấc núi dạ dưa ruột tằm"
(Ái quốc ca)
+ Ḷng căm thù giặc :
Xuất
phát từ ḷng yêu nước thiết tha, Phan Bội Châu
đă ư thức được trách nhiệm đối
với tổ quốc. Ông căm thù những kẻ giày xéo
quê hương làng mạc. Ông đă chỉ ra cho mọi
người thấy kẻ thù của dân tộc Việt
Nam lúc bấy giờ là thực dân Pháp và bè lũ tay sai bán
nước và ḷng căm thù của ông cũng hướng
vào hai đối tượng này. Ghét Pháp, ông ghét tất
cả những ǵ có liên quan đến chúng, kể cả
những vật vô tri vô giác (lá cờ, ổ bánh ḿ, tờ lịch). Ông cương
quyết không chấp nhận sự hiện diện
của Pháp ở Việt Nam, ông đă mỉa mai,
chỉ trích sự có mặt một cách vô lư của
thực dân Pháp trên đất nước ta (Tu hú tranh
tổ cà cưỡng).
Đối
với bọn tay sai bán nước ông tỏ thái độ
khinh miệt, xem thường. Dưới mắt ông,
bọn quan lại là những kẻ vô dụng, hèn hạ,
chỉ biết bảo vệ cá nhân ḿnh, sẵn sàng khom lưng
qú gối trước kẻ thù.
+ Vạch trần tội ác của kẻ thù :
Dùng
văn học làm vũ khí để vạch trần
tội ác của thực dân Pháp, ḍng văn học yêu nước
chống Pháp đă xem đó là nhiệm vụ hàng đầu.
Nhưng đến thơ văn Phan Bội Châu th́ bộ
mặt của tên thực dân cướp nước
mới được nhận thức cụ thể. Ông
đă nói đến chính sách thuế khóa nặng nề,
ông chỉ rơ sự thâm độc của chính sách khai thác
thuộc địa và ông cũng cho mọi người
thấy được sự thật của vấn đề
khai hoá. Ông báo trước cho mọi người thấy
rồi đây nước ta sẽ nghèo, sẽ hèn, sẽ
yếu, sẽ ngu, dân tộc ta đang đứng trước
nguy cơ diệt chủng. Mặc dù lời lẽ phân tích
của ông chưa sâu sắc nhưng qua tác phẩm người
đọc cũng cảm thấy rùn ḿnh, khiếp sợ
trước kẻ thù nguy hiểm của dân tộc.
+ T́nh yêu nước của Phan Bội Châu c̣n
được thể hiện qua nỗi xót xa, sự thông
cảm đối với người dân nghèo khổ. Ông
vô cùng đau xót trước cảnh đói rét lầm
than của người dân vô tội. Ông rất thông
cảm cho kiếp đời nô lệ của những người
dân mất nước phải sống cuộc đời
lam lũ giành giật từng miếng cơm, manh áo. H́nh
ảnh những anh phu xe dưới trời mưa băo, g̣ lưng
kéo chiếc xe nặng chở một tên thực dân béo
mập, hay những đứa bé bán bánh vào đêm mưa
đă lần lượt xuất hiện trong thơ ông
(Phu xe than trời mưa, Đêm mưa thương người bán bánh
rao)
+
Phan Bội Châu không chỉ bộc lộ tấm ḷng yêu nước,
mà c̣n nêu lên một tinh thần sẵn sàng chống
giặc cứu nước. Ngay cả thời kỳ bị
giam lỏng ở Huế, sống trong hoàn cảnh nguy
hiểm, luôn bị uy hiếp, đe dọa, thơ văn
ông vẫn c̣n khí thế hừng hực như khi mới
xuất dương :
"Đúc
gan sắt để dời non lấp bể
Xối
máu nóng rửa vết nhơ nô lệ"
(Bài ca chúc tết thanh niên)
Ḷng
yêu nước của Phan Bội Châu sâu sắc, giàu
sức chiến đấu nhưng bước vào giai đoạn
mới của cách mạng những lời kêu gọi
của ông không đi vào quần chúng với sức
mạnh băo táp như xưa. Thời đại đă
tiến lên phía trước và nội dung thơ văn ông
không theo kịp. Ông không giải đáp được
những vấn đề mà quần chúng đă bắt
đầu quan tâm, đ̣i hỏi
-
Yêu nước gắn liền với vấn đề cách
mạng :
Mặt
tiến bộ trong tư tưởng yêu nước
của Phan Bội Châu chính là sự đổi mới
trong quan niệm về yêu nước và đường
lối cứu nước. Là một người từng
xuất thân từ cửa Khổng sân Tŕnh nhưng Phan
Bội Châu đă có một thái độ rất dứt
khoát đối với chế độ phong kiến.
Với ông, yêu nước không nhất thiết phải yêu
vua, đất nước này càng không phải là của
vua. V́ thế chống giặc cứu nước là v́ ṇi
giống, dân tộc Việt Nam chứ không v́ một
triều đại hay một ḍng họ nào cả. Ông
đă đưa ra chủ trương chống phong
kiến triệt để. Khác với các nho sĩ yêu nước
ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX, Phan Bội
Châu đứng lên chống Pháp là để giành lại
độc lập và tiến tới xây dựng xă hội
mới, không cần có vua.
Tiến
bộ hơn một số nho sĩ cùng thời như Phan
Chu Trinh, Phan Bội Châu đă đặt ra
nhiệm vụ giải phóng đất nước
bằng con đường bạo động cách mạng.
Ông từng nêu rơ "Thù dân tộc không lấy máu
rửa không sạch". Thơ văn ông tràn trề tinh
thần quyết chiến đấu, ngùn ngụt như
lửa, ồ ạt như lũ : "Lắng
xuống mà suy nghỉ rồi hăng hái vùng lên vung tay mà
hô lớn : kẻ thù, kẻ thù, ta thề phải tiêu
diệt hết rồi mới ăn cơm sáng".
Theo
quan niệm của Phan Bội Châu nhiệm vụ cứu nước
là rất quan trọng và cấp bách trong hoàn cảnh
hiện tại. Tuy nhiên, vấn đề cải cách xă
hội, tiến lên xây dựng một chế độ
mới, chế độ dân chủ tư sản, theo gương
Nhật Bản cũng là rất cần thiết, phải
thực hiện ngay trong thời điểm bấy giờ.
Với ông tất cả những việc làm trên là yêu nước,
là đóng góp lớn cho xă hội, là cứu nguy cho
giống ṇi.
-
Yêu nước gắn liền với vấn đề dân
chủ :
Phan
Bội Châu đă đưa ra quan niệm tiến bộ
về người dân trong xă hội. Ông đă đi đến
khẳng định đất nước là của dân,
đấu tranh chống giặc cứu nước là để
bảo vệ ṇi giống, đồng bào Việt Nam. Ông
đă lấy tư tưởng dân chủ làm động
lực đấu tranh giành độc lập.
Hơn
nữa, Phan Bội Châu đă xác lập vai tṛ làm chủ
xă hội của người dân. Ông đă nói về
quyền làm chủ của người dân, cho nên trong trách
nhiệm để mất nước tội của người
dân cũng không nhỏ.
Sơ
kết: Với Phan Bội Châu yêu nước không c̣n là t́nh
cảm cao quư chỉ có ở
một số ít người mà là phẩm chất phổ
biến của mọi người. Yêu nước không
thể chỉ là yêu thương chung chung mà là ghét xâm lược,
không chịu làm nô lệ, biểu hiện thành hành động
hy sinh cứu nước. Tinh thần yêu nước ở
Phan Bội Châu cũng là tinh thần quyết chiến
chống xâm lược. Trong t́nh thế lúc đó, theo Phan
Bội Châu duy tân là để mở mang dân trí, nâng cao dân
khí để có thêm sức mạnh đánh Pháp.
Phan
Bội Châu đă thấy được điều tai
hại của việc mất đoàn kết, việc chia
rẽ dân tộc. Ông cho rằng một trong những nguyên
nhân giúp Pháp chiếm được đất nước
ta và đặt được ách đô hộ lên đất
nước ta một cách vững vàng là do nhân dân ta
"Xung khắc bất ḥa":
"Nỗi
ngu dại nói không kể xiết
Lại
ngờ nhau chẳng biết tim nhau
Coi
nhau như thể quân thù
Thù
mong nhau hại ghét cầu nhau hư
Bụng
có hợp th́ nhà mới hợp
Ḷng
đă tan th́ nước cũng tan"
(Hải ngoại huyết thư)
Từ
đó ông đă đi đến khẳng định
sức mạnh của đoàn kết. Và ông cũng đă
đưa ra một chủ trương đoàn kết
rộng răi, không phân biệt giai cấp, đẳng
cấp, tôn giáo, thể hiện một niềm tin vững
chắc vào sức mạnh của đoàn kết. Tuy nhiên,
ông chưa thấy rơ lực lượng tiên tiến
nhất của xă hội có thể đảm nhiệm
được nhiệm vụ cứu nước, chưa
nhận thức được đầy đủ về
vai tṛ của người nông dân để nh́n về
họ như một lực lượng ṇng cốt của
phong trào cách mạng.
3.1- Lư tưởng mới :
Thơ
văn Phan Bội Châu, trong chừng mực nhất định,
đă nêu lên được một lư tưởng mới
cho cuộc sống và đă sáng tạo được
mẫu người lư tưởng cho thời đại.
Lư
tưởng đó là cứu nước. Ông cho rằng
mục đích tốt đẹp nhất của đời
người, lư tưởng tốt đẹp nhất
của đời người là làm sao cứu được
nước, v́ cứu nước cũng tức là cứu
ḿnh. Lư tưởng ấy thật cao quư nhưng nó
lại không chút ǵ cao xa cả, ai cũng có thể theo
được.
Ông
đă nêu lên mẫu người lư tưởng trong xă
hội, đó là người yêu nước, có ḷng căm
thù giặc, dám xả thân v́ đất nước. Ví
dụ : các nhân vật anh hùng trong tác phẩm "Trùng
quang tâm sử".
3.2- Chủ nghĩa anh hùng tiến bộ :
Người
anh hùng xuất hiện trong sáng tác của Phan Bội Châu
là những con người b́nh thường nhưng làm
được việc phi thường. Với ông không có
sự phân biệt nam nữ, đẳng cấp, tôn giáo,
giàu nghèo... trong quan niệm về người anh hùng. Và có
anh hùng hữu danh th́ cũng có anh hùng vô danh. Có anh hùng thành
công th́ cũng có anh hùng thất bại. Mặt khác, Phan
Bội Châu c̣n nói đến quan niệm về tập
thể anh hùng. Trong lịch sử đấu tranh giữ nước
và dựng nước của dân tộc không chỉ có cá
nhân anh hùng mà c̣n có cả tập thể anh hùng.
III.-
NGHỆ
THUẬT LÀM THƠ PHAN BỘI CHÂU
1. Thể loại : Ông đă vận dụng hầu
hết các thể loại văn học của thời
kỳ trung
đại và hiện đại. Các loại văn cử
tử như phú, đường luật, câu đối;
h́nh thức cổ điển như kư, minh, cổ phong,
từ, luận; các h́nh thức dân tộc như lục bát,
song thất; các h́nh thức dân gian như vè, hát dặm,
ca dao, chèo; các h́nh thức mới như nghị luận,
truyện ngắn, tiểu thuyết, tạp văn, báo chí,
hồi kư.v.v... Phan Bội Châu đều sử dụng
đến và sử dụng không phải là không thành
thạo.
2.
Ngôn ngữ : Ngôn ngữ trong sáng tác của Phan Bội Châu
c̣n chịu ảnh
hưởng của ngôn ngữ trong văn học trung đại.
Nhưng tác giả đă thể hiện sự cố
gắng lớn khi tạo cho nó có tính chất giản
dị, dễ hiểu. Tất cả không ngoài mục đích
nhằm đạt hiệu quả tuyên truyền.
3.
Nhân vật : Nhân vật trong tác phẩm của Phan Bội
Châu đă đạt đến mức
độ đa dạng, phong phú. Ông đă đề
cập đến nhiều hạng người trong xă
hội, tập trung thể hiện con người yêu nước.
Các nhân vật của ông đă bớt dần tính ước
lệ.
4. Văn chữ Hán của Phan Bội Châu khác với
văn chữ Hán thời trung đại. Nó
không sao tránh khỏi một số nề nếp của văn
cử tử nhưng nó đă nhẹ nhàng hơn, rành
mạch hơn, thông tục hoá hơn, chú trọng nội
dung hơn h́nh thức, nó có một phong cách riêng.
Nhiều người cho rằng văn chữ Hán của
Phan Bội Châu chịu ảnh hưởng của loại
văn Tân văn tùng báo và của Lương Khải Siêu.
5.
Giọng văn của Phan Bội Châu hùng hồn thống
thiết, bừng bừng nhiệt t́nh
cách mạng.
6. Phan Bội Châu đă cố gắng cách tân trong
vấn đề xây dựng kết cấu tác
phẩm, nhưng lối sáng tác cũ c̣n ảnh hưởng
không nhỏ đối với ông.
-
Về mặt nội dung, sáng tác của Phan Bội Châu
đă thể hiện được nhiều vấn đề
mới, có đóng góp đáng kể cho tiến tŕnh
hiện đại hoá văn chương Việt Nam.
-
Về nghệ thuật, Phan Bội Châu chỉ dừng
lại ở mức độ cách tân nghệ thuật văn
chương của nhà nho, những đổi mới đó
chưa đáp ứng được yêu cầu mới
của thời đại.