Chương 1
KHÁI QUÁT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900 - 1930
I. NHỮNG TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ XĂ HỘI, TƯ TƯỞNG,VĂN HÓA, THẨM MĨ TRONG GIAI ĐOẠN 1900 - 1930:
TOP |
1.1- T́nh h́nh chính trị :
Đầu thế kỉ XX Pháp cơ bản đă
thực hiện xong công cuộc b́nh định trên đất
nước ta và chuyển sang khai thác thuộc địa,
xây dựng trật tự mới. Đây là thời điểm
Pháp cảm thấy có thể yên tâm và phấn khởi trước
cảnh thái b́nh mà chúng hằng mong đợi. Nhưng
đối với ta, đây là những ngày tháng đau thương,
bi đát nhất của lịch sử.
Kể từ sau cái chết của Phan Đ́nh Phùng
(1896), xem như phong trào chống Pháp theo ngọn cờ
Cần Vương đă thất bại hoàn toàn . Thôn xóm,
làng mạc Việt Nam tiêu điều xơ xác do kẻ thù
tàn phá, nhân dân phải xiêu tán lưu lạc khắp nơi.
Những người tham gia khởi nghĩa trước kia
bị giết, bị tù đày hoặc phải
trốn tránh không dám trở về. Trong khi đó, cột
sống của chế độ phong kiến cũng bị
sụp đổ. Hàng ngũ giai cấp thống trị tan
ră. Cả bộ máy thống trị của nhà nước
phong kiến từ triều đ́nh đến tỉnh ,
huyện , làng, xă đều trở thành tay sai cho bọn xâm
lược. Mọi quyền hành đều nằm trong tay
Pháp . Tầng lớp trí thức thời phong kiến lúc
bấy giờ cũng lâm vào t́nh trạng sống dở,
chết dở. Những người đă từng tham gia vào
phong trào chống Pháp kẻ th́ bị giết chết, người
bị tù đày hoặc trốn tránh, có khi phải
chạy ra nước ngoài. Có người không chịu
được thử thách cuối cùng phải ra đầu
thú, sống nơm nớp trong cảnh tù treo của
thực dân. Có người không tham gia chống Pháp nhưng
c̣n chút liêm sĩ th́ lui về sống ẩn dật,
bất đắc chí. Họ thường phải cam
chịu, bất lực và đành phải an phận. Cá
biệt có một số người ham cuộc sống giàu
sang phú quư nên đă cởi bỏ lớp nho phong , sĩ
khí để ra phục vụ cho ông chủ mới...
Thế là bộ máy cai trị của Pháp được
tổ chức lại theo lối hiện đại hơn,
chặt chẽ hơn, có quyền lực hơn và phá
dần cái thế tự triü làng xă ngày trước. Để
che dấu bộ mặt thật cướp nước,
để tuyên truyền văn minh nước Pháp, bọn
thực dân đă đưa ra Hội đồng tư
vấn , bày tṛ dân chủ giả hiệu. Chúng c̣n lập
Viện Hàn lâm Bắc Ḱ để dựng lên cái gọi
là bảo vệ và phát
triển văn hoá .
Trong bối cảnh chính trị phức tạp và
đen tối như thế , thanh niên Việt Nam cảm
thấy bi quan tuyệt vọng vô cùng. Họ cũng
hết sức chán nản lối học cũ, bởi v́
ai cũng nhận ra một điều rất rơ ràng :
Ông
nghè ông cống cũng nằm co
Sáng
rượu sâm banh , tối sữa ḅ
( Chữ Nho - Trần Tế Xương )
Họ quyết định bỏ lối học
từ chương, đi t́m đến những tri
thức hiện đại mà họ biết được
qua sách vở và báo chí nước ngoài được bí
mật đưa vào Việt nam lúc này. Trong số đó
tiêu biểu là tân thư, tân văn. Cũng từ sách
vở nước ngoài, họ được tiếp xúc
với các luồng tư tưởng tiến bộ,
hiểu được t́nh h́nh cách mạng trên thế
giới từ đó chọn cho ḿnh một con đường
cứu nưóc khác trước. Năm 1900, Phan Bội Châu
đậu giải nguyên. Tên tuổi, danh tiếng, khí phách
của ông đă được nhiều người
biết đến và hết ḷng ái mộ, nhất là
tầng lớp thanh niên. Họ cảm thấy rằng: Con
người đó là hiện thân của tinh thần bài Pháp,
của phong trào ái quốc, phong trào vận động cách
mạng lúc này.
Phong trào yêu nước lại được
diễn ra sôi nổi trong những năm 1905 đến
1908, dưới sự lănh đạo của các nhà chí sĩ
yêu nước đi theo con đường cách mạng dân
chủ tư sản. Mặc dù chia làm hai phái, kịch
liệt và ôn hoà, nhưng những tổ chức yêu nước
này đều nhằm mục đích chung là cứu nước,
khôi phục nền độc lập cho dân tộc.
Hoạt động của các tổ chức Duy Tân ở
Bắc, Trung và Minh Tân ở Nam, cùng với nhóm Đông Kinh
Nghĩa Thục đă đưa phong trào cách mạng
ở những năm này lên đến đỉnh cao.
Thực dân Pháp lo sợ và t́m cách đối phó.
Một cuộc đàn áp dă man những người yêu
nước đă diễn ra. Nhiều chiến sĩ cách
mạng bị giết, bị tù đày hoặc phải
bỏ trốn ra nước ngoài. Lực lượng cách
mạng bị tan ră. Thực dân Pháp không chỉ khủng
bố điên cuồng bằng biện pháp chính trị, quân
sự mà c̣n chủ trương áp dụng những chính sách
văn hoá thực dân để tạo ảnh hưởng
lâu dài và sâu sắc.
Thế nhưng, những người yêu nước
vẫn không chịu khuất phục. Họ vẫn
tiếp tục hoạt động và t́m cơ hội
để gây dựng lại phong trào. Việt Nam Quang
Phục Hội ra đời năm 1912 và t́m cách bắt
rễ về trong nước. Sau đại chiến
thế giới lần thứ nhất, đặc biệt
từ khoảng năm 1922 , cách mạng Việt Nam lại
chuyển biến mạnh mẽ. Xu hướng cách
mạng tư sản cũ trước khi chấm dứt
với cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái
Học lănh đạo thất bại, cũng đă có
những cố gắng, vừa công khai, vừa bí mật
hoạt động. Cách mạng Việt Nam đă đến
lúc phải bước vào phạm trù cách mạng dân
chủ mới. Ngày 03- 02- 1930 , Đảng Cộng sản Đông
Dương chính thức được thành lập,
mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên cách
mạng vô sản do giai cấp công nhân lănh đạo.
1.2- T́nh h́nh kinh tế :
Đầu thế kỉ XX , kinh tế nước ta
vẫn là kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Thực dân
Pháp thực hiện chính sách kinh tế thực dân ( bán hàng
hoá, khai thác nguyên liệu, cho vay nặng lăi, công nghiệp
chỉ phát triển trong giới hạn không hại đến
công nghiệp chính quốc, đóng khung trong phạm vi cung
cấp cho chính quốc những nguyên liệu hay những
sản vật mà chúng thiếu, tăng cường bóc
lột , sưu thuế ), từ đó làm phá sản nông dân
và thợ thủ công, tạo ra nguồn nhân công rẻ
mạt , phục vụ cho các công tŕnh khai thác của chúng.
Kết quả của chính sách nói trên đă kéo nước
ta vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư
bản nhưng không được công nghiệp hoá mà
lại biến thành thị trường tiêu thụ cho Pháp.
Giao thông buôn bán mở mang, kinh tế hàng hoá phát
triển đă tạo ra một thị trường
thống nhất từ Nam đến Bắc. Khách quan đă
tạo cơ sở để củng cố sự
thống nhất của dân tộc đă h́nh thành từ lâu
nhưng chưa thật vững. Sự phát triển của
giao thông và buôn bán làm mọc lên nhiều thành thị, các
hải cảng được xây dựng, nhiều người
từ nông thôn kéo ra thành thị. Nhưng thành thị
chủ yếu là trung tâm thương nghiệp và tiêu
thụ, không có tác dụng tích cực đẩy mạnh
kinh tế nước ta theo hướng tư sản hoá.
1.3- T́nh h́nh xă hội :
Xă hội nước ta trước khi Pháp xâm lược
là một xă hội phong kiến phương Đông. Chính
quyền thuộc về một ḍng họ, đứng
đầu có vua, trong xă hội có tứ dân. Nông dân
giữ vai tṛ quan trọng về kinh tế nhưng bị
khinh rẻ, bị áp bức bóc lột. Kẻ sĩ
được xem như một đẳng cấp đặc
biệt, tự nhận và được xă hội
thừa nhận như người cầm chính đạo
truyền bá giáo hoá triều đ́nh cho nông dân nhất là
giai đoạn đầu thế kỉ XX .
Khi có mặt thực dân Pháp trên đất nước
ta th́ mọi cái đă thay đổi. Kinh tế hàng hoá kích
thích sự phát triển của công thương nghiệp
làm cho thành thị phát triển, làm xuất hiện
nhiều nhu cầu mới, phát triển nhiều nghề
mới, tầng lớp thị dân phát triển. Tầng
lớp thị dân trong các thành phố nhượng địa
được xem là lớp người ngoài tứ dân .
Họ có ít nhiều tự do trong đời sống thành
thị tư sản. Đối với họ th́ họ hàng,
làng xă, đẳng cấp không c̣n nhiều ư nghĩa
nữa. Giai cấp tư sản từ các tầng lớp
thị dân phát triển dần lên.
Giai cấp tư sản Việt Nam h́nh thành trong hoàn
cảnh hết sức đặc biệt nên có những
đặc trưng riêng. Điều đó cũng ảnh hưởng
đến ư thức của giai cấp này. Giai cấp tư
sản Việt Nam không sinh ra và trưởng thành từ
cuộc đấu tranh chống giai cấp phong kiến
Việt Nam mà lại do thực dân Pháp đẻ ra. Pháp
đẻ ra rồi cũng chính chúng chèn ép. Giai cấp tư
sản Việt Nam nhiều tính chất mại bản,
nặng thương nghiệp hơn công nghiệp, không ĺa
bỏ được lối bóc lột phong kiến.
Tầng lớp tư sản Việt Nam thời bấy
giờ cũng không có một tinh thần dân tộc v́
họ không có một cơ sở kinh tế hùng hậu, không
có kinh nghiệm đấu tranh và không có ư thức giai
cấp rơ rệt.
Sự phát triển các đô thị dẫn đến
sự phá sản nông nghiệp, làm cho nông thôn tiêu điều
xơ xác. Nông dân kéo ra thành thị ngày càng đông.
Một tầng lớp tiểu tư sản nghèo ngày càng
phát triển , sống bấp bênh ở thành thị.
Ở đầu thế kỉ XX , giai cấp công nhân
Việt Nam đă h́nh thành. Do quá tŕnh bần cùng hoá và phá
sản của nông dân , thợ thủ công , giai cấp công
nhân có điều kiện để hiểu được
nông dân, liên minh được chặt chẽ với nông
dân. Và ngược lại, cũng trên điều kiện
hiểu biết ấy , do vị trí lịch sử của
giai cấp vô sản mà nông dân đi theo nó làm cách
mạng, bền bỉ và lâu dài.
Trong t́nh h́nh xă hội đầy phức tạp và có
nhiều đổi mới như thế th́ giai cấp
phong kiến , vốïn đă h́nh thành lâu đời trong xă
hội Việt Nam cũng lung lay đến tận gốc.
Để bảo vệ quyền lợi ích kỉ cho giai
cấp ḿnh, giai cấp phong kiến đă quỳ gối
đầu hàng giặc, làm tay sai cho giặc. Hơn thế
nữa, họ c̣n cấu kết với giặc để
quay trở lại đàn áp các phong trào yêu nước
của nhân dân ta. Tuy nhiên , trong số họ cũng c̣n có
những người yêu nước, tự tách ḿnh ra
khỏi hàng ngũ đó để đi làm cách mạng
theo xu hướng dân chủ tư sản.
Nh́n chung, xă hội Việt Nam đầu thế
kỉ XX có nhiều biến động. Cơ cấu xă
hội thay đổi hoàn toàn.
2- Vấn đề tư tưởng , văn hoá ,
thẩm mĩ : |
TOP |
2.1- Xă hội Việt Nam trước khi Pháp xâm lược
là một xă hội phong kiến chuyên chế tập
quyền cao độ. Nhà Nguyễn khi lên ngôi đă duy tŕ
Nho giáo, xem Nho giáo như là quốc giáo, dùng tư tưởng
Nho giáo để thống trị xă hội. Nho giáo đă
ràng buộc con người vào tư tưởng mệnh
trời. Nho giáo dùng luân thường đạo lí để
giáo dục xă hội, lấy bổn phận tu thân ,
tề gia, trị quốc, b́nh
thiên hạ làm kim chỉ nam cho mọi hành động
của người quân tử. Mục đích của
Nho giáo muốn biến con người trở thành
những phần tử đắc lực phụng sự
cho nhà nước phong kiến. Đến khi có sự
hiện diện của thực dân Pháp, t́nh h́nh chính
trị xă hội đă có nhiều biến đổi nhưng
mọi vấn đề nêu trên vẫn được
tồn tại. Kẻ thù muốn duy tŕ tư tưởng
phong kiến lạc hậu để ḱm hăm sự phát
triển của ta, nhằm tạo thuận lợi cho
việc cai trị của chúng.
Đến đầu thế kỉ XX , giai cấp phong
kiến đă tỏ ra bạc nhược, ươn hèn,
cúi đầu làm tay sai cho giặc. Hàng ngũ giai cấp
thống trị tan ră hoàn toàn. Ư thức phong kiến cũng
ngày càng thể hiện tính chất lạc hậu, cổ
hủ. Với cách nh́n của các nhà nho tiến bộ
thời này, nó là sức mạnh cản trở sự phát
triển của xă hội. Cho nên , các nhà chí sĩ Đông
Kinh Nghia Thục đă chủ trương chốïng
lại tư tưởng phục cổ, sùng bái cổ nhân,
giáo điều, có tác hại ḱm hăm sự phát triển
của trí tuệ. Họ chủ trương làm cho con người
phải từ bỏ tư tưởng sống định
mệnh, trở nên can đảm, làm chủ cuộc đời
ḿnh, có khả năng hiểu biết vũ trụ,
phất cao ngọn cờ khoa học .
Mặc dù ư thức phong kiến đă tỏ ra thoái
hoá, nhưng trong thực tế , ở giai đoaün 1900 -
1930 , nó vẫn c̣n cơ sở tồn tại. Ở nông thôn,
gốc rễ của nó vẫn c̣n rất sâu. Ở thành
thị th́ nó bắt đầu va chạm với ư
thức tư sản vừa mới xuất hiện. Tuy nhiên,
phạm vi c̣n rất nhỏ hẹp , chỉ giới
hạn trong quan hệ đạo đức gia đ́nh và t́nh
cảm cá nhân.
Vào đầu thế kỉ XX, giai cấp tư
sản đă ra đời, tư tưởng tư sản
cũng xuất hiện. Nó được đưa từ
nước ngoài vào, thông qua các sĩ phu tiến bộ. Ư
thức tư sản c̣n giới hạn trong phạm vi các
thành thị và tỏ ra c̣n nhiều yếu ớt. Ư
thức tư sản trong giai đoạn này c̣n chịu
khuất phục ư thức phong kiến. Sự xung đột
cũng chỉ xảy ra trong phạm vi cá nhân, gia đ́nh là
chủ yếu. Vị trí lịch sử của nó không cho
phép nó xung đột với ư thức phong kiến trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị.Tuy nhiên, khi đề
cập đến vấn đề ảnh hưởng
của ư thức hệ tư sản Việt Nam đối
với sự phát triển của văn học, cũng
cần phải lưu ư rằng: Mặc dù giai cấp tư
sản Việt Nam ở giai đoạn này, bản chất
là ốm yếu, phát triển què quặt nhưng đó là
sự ốm yếu, què quặt về kinh tế, chính
trị, văn hoá. Đối với công cuộc hiện
đại hoá văn chương Việt Nam, ư thức
hệ tư sản đă có một vai tṛ xúc tác tích
cực. Và, theo quan điểm của Mác : Ư thức
hệ thống trị thời đại là ư thức
hệ của giai cấp thống trị. Giai cấp nào
thống trị xă hội về mặt vật chất cũng
thống trị xă hội về mặt tinh thần, nhưng
trong khi chi phối xă hội th́ đồng thời nó cũng
là của xă hội và chịu sự chi phối trở
lại của xă hội. Qua đó, chúng ta càng thấy rơ
vai tṛ của ư thức hệ tư sản trong tiến tŕnh
hiện đại hoá văn chương ở giai đoaün
đầu thế kỉ XX . Ở đây, khi xem xét vấn
đề , chúng ta cũng phải lưu ư một điều
là không thể đồng nhất hoàn toàn chính trị
với văn học, nhất là bàn đến ư thức
hệ tư sản của giai đoạn này. Giữa chúng
có liên quan mật thiết với nhau nhưng vẫn có quy
luật riêng. Và, bằng chứng là khi cách mạng tư
sản đă thất bại hoàn toàn, với cuộc
khởi ngĩa Yên Bái, sau năm 1930 văn học chịu
ảnh hưởng của ư thức hệ tư sản
đă phát triển mạnh mẽ, mặc dù nó c̣n mang
nhiều hạn chế.
Nh́n chung, đầu thế kỉ XX, trong xă hội
Việt Nam đă có những chuyển biến mạnh
mẽ từ ư thức hệ phong kiến sang ư thức
hệ tư sản. Ở giai đoaün 30 năm đầu
của thế kỉ, ư thức hệ tư sản chưa
đủ sức làm thay đổi nền văn hoá phong
kiến Việt Nam nhưng trong một mức độ
nhất định nó đă góp phần tạo ra những
nhân tố thúc đẩy cho sự đổi mới hoàn
toàn ở giai đoạn sau, giai đoaün 1930 - 1945 .
Vào những thập niên 20, 30, ư thức vô sản
đă bắt đầu xuất hiện. Nó có mặt do
hai điều kiện: Aính hưởng của Cách
mạng tháng Mười Nga
và cách mạng Trung Quốc thông qua sách báo, đặc
biệt là vai tṛ của Nguyễn Aïi Quốc và một
số trí thức tiến bộ đương thời; và
sự ra đời của giai cấp vô sản Việt
Nam. Nhưng ảnh hưởng của ư thức hệ vô
sản chủ yếu mới chỉ là trên đời
sống tư tưởng chính trị. Đối với văn
học, nhất là văn học giai đoạn này, dĩ
nhiên nó có ảnh hưởng, hơn nữa c̣n tạo ra
những thành tựu đáng kể nhưng chưa có điều
kiện để phát triển.
2.2- Trước thế kỉ XX, nền văn hoá nước
ta là nền văn hoá phong kiến mang đậm bản
sắc Đông Nam Á. Về đời sống vật
chất, Việt Nam có nghề trồng lúa nước cho nên
thức ăn là cơm, thức uống th́ có rượu
cũng được chế tạo từ gạo. Khí
hậu ở Việt Nam nóng cho nên cách ăn mặc
của người Việt thường giản dị, thoáng
mát, làm từ chất liệu thực vật ( tơ
tầm , bông vải , đay gai ) . Việc ở cũng
rất cẩn thận, người Việt có thói quen
chọn hướng làm nhà, chú ư vai tṛ phong thủy. Đất
Việt là vùng sông nước, cho nên phương tiện
đi lại cần phải dùng thuyền. Trồng lúa nước
th́ có tính thời vụ cao, v́ thế người
Việt cần phải sống có sự liên kết
chặt chẽ với nhau, h́nh thành tính cộng đồng
và tính tự trị trong tổ chức xă hội. Lối
tổ chức này tạo nên tính dân chủ và tính tôn ti,
tinh thần đoà́n kết và tính tập thể. Khi
tiếp thu những luồng tư tưởng nước
ngoài, người Việt Nam đă có sự tiếp
biến chứ không có t́nh trạng xung đột hoặc
độc tôn .
Nh́n chung, nền văn hoá Việt Nam được
thai nghén và trưởng thành trong cái nôi văn hoá Đông
Nam Á. Tư tưởng phương Đông đă ăn sâu vào
phong tục, tập quán và tâm khảm của con người.
Lối sống theo làng xă, họ tộc đă tạo nên
thế tự trị lâu đời cho người Việt
Nam. Con người Việt Nam có nếp sống chuẩn
mực từ trong cách ăn mặc cho đến việc
ứng xử. Thế mà đến đầu thế
kỉ XX, sự du nhập của văn hoá phương Tây
vào Việt Nam đă làm thay đổi những giá trị
cổ truyền của dân tộc. Văn hoá Việt Nam
chuyển dần sang nền văn hoá hiện đại
chịu ảnh hưởng của văn hoá phương
Tây.
Trên b́nh diện văn hoá vật chất, ảnh hưởng
đáng kể nhất là trong phát triển đô thị, công
nghiệp và giao thông- các lĩnh vực mà phương Tây
vốn mạnh.
Về mặt văn hoá tinh thần: Trước kia
ở Việt Nam tồn tại ba tôn giáo được du
nhập từ nước ngoài. Đó là Phật giáo, Nho giáo
và Đạo giáo. Kitô giáo vốn đă xuất hiện
ở Việt Nam từ các thế kỉ trước (XVI
,XVII) , đến giai đoạn 1900- 1930 đă có nhiều
ảnh hưởng đến đời sống tinh
thần của người Việt Nam. Ngoài ra, c̣n có
những đổi mới trong việc giáo dục, trong lĩnh
vực văn tự - ngôn ngữ, báo chí, văn học
nghệ thuật.
Về giáo dục : Đi đôi với những đổi
thay về kinh tế, chính trị, xă hội, giáo dục
ở giai đoạn này cũng xuất hiện nhiều
yếu tố mới. Thực hiện chính sách cai trị
thuộc địa, Pháp đă tỏ ra rất khôn khéo
trong vấn đề này. Khi đă b́nh định xong toàn
cơi Việt Nam, chúng chưa bỏ ngay việc học và thi
cử bằng chữ Hán mà tiến hành theo từng bước.
Đầu tiên là bổ sung những bài thi mới vào
những ḱ thi vốn có từ trước. Cho nên Tú Xương
đă mỉa mai :
Bốn ḱ
trọn vẹn thêm ḱ nữa
Á , ớ , u , Âu ngọn bút ch́
( Đi thi )
Măi đến năm 1919, nhà Nguyễn c̣n cho tổ
chức ḱ thi Hội cuối cùng. Nhưng các ông nghè, ông
cử, ông cống thời đó chỉ có danh hiệu mà
thôi, chứ không được bổ dụng vào các
ngạch quan lại như trước nữa. Dần
dần, các trường dạy chữ Nho bị đóng
cửa. Các giáo chức đều bị băi bỏ. Thay
thế vào đó Pháp đă ban bố học chính tổng
quy ( 1918 ). Bắt đầu từ lúc đó, chính
quyền thực dân kiểm soát tất cả công việc
về giáo dục. Tiếng Pháp được dạy trong
nhà trường ngày càng phổ biến rộng hơn.
Từ năm thứ hai, thứ ba học sinh phải
học tiếng Pháp.
Mục đích của Pháp là hướng tới
việc đào tạo lớp người làm tay sai cho chúng.
Pháp không hề đặt ra nhiệm vụ phát triển
tŕnh độ dân trí. Và, những đổi thay về giáo
dục ấy đă dẫn đến kết quả là
tỉ lệ người đi học so với dân số
c̣n rất ít. Hầu hết học sinh là con em của
tầng lớp giàu có hoặc con em của người dân
thành thị có điều kiện thuận lợi trong
việc học tập.
Chữ quốc ngữ : Chữ quốc ngữ ra đời
từ thế kỉ XVII, là thành quả tập thể
của nhiều giáo sĩ Bồ Đào Nha, Ư, Pháp ... trong
đó công lao lớn nhất thuộc về linh mục
Alexandre de Rhodes. Cuối thế kỉ XIX, chữ quốc
ngữ đă được người Pháp mang ra phổ
biến nhưng bị sự phản ứng quyết
liệt của các nhà nho, cũng như những người
yêu nước Việt Nam. Nó bị xem là thứ chữ
của quân xâm lược. Sang đầu thế kỉ XX,
những sĩ phu yêu nước trong phong trào Duy Tân
nhận thấy những ưu điểm của chữ
quốc ngữ đă cổ động sử dụng
chữ quốc ngữ. Tác giả Văn minh tân đọc
sách viết : Phàm người
trong nước đi học nên lấy chữ quốc
ngữ làm phương tiện đầu tiên, để
cho trong thời gian vài ba tháng đàn bà, trẻ con đều
biết chữ... Đó thực là là bước đầu
tiên trong việc mở mang trí khôn vậy [ 43/ 76]. Nhưng
đến sau chiến tranh thế giới lần
thứ nhất, khi Hán học mất địa vị chính
thống và trong xă hội đă h́nh thành những yêu
cầu mới, những thành phần công chúng mới th́
chữ quốc ngữ mới được xem là thứ
chữ của dân tộc. Việc đổi mới
chữ viết đă mang nhiều ư nghĩa lớn, nó không
chỉ tạo điều kiện
dễ dàng trong việc học, viết , đọc mà
c̣n cung cấp phương tiện hiện đại cho
nền văn học mới.
Về văn học : Việc phổ biến sử
dụng chữ quốc ngữ cũng góp phần thúc đẩy
việc xây dựng và phát triển nền văn xuôi
Việt Nam.. Nền văn học trung đại Việt
Nam chưa chú ư phát triển văn xuôi. Ở giai đoạn
nửa cuối thế kỉ XIX đă có xuất hiện
những sáng tác văn xuôi bằng chữ quốc ngữ
của Trương Vĩnh Kí và Huỳnh Tịnh Của .
Nhưng đây chỉ là những ṃ mẫm ban đầu,
những thí nghiệm lẻ loi chưa có tính chất
phổ biến. Sang đầu thế kỉ XX , văn xuôi
Việt Nam mới thể hiện những tiến bộ rơ
rệt. Bên cạnh đó, do có sự tiếp xúc với văn
học phương Tây mà nền văn học Việt Nam
giai đoạn này đă xuất hiện thể loại
mới: Thể loại tiểu thuyết hiện đại,
vốn là đặc thù của văn hoá phương Tây.
Khởi đầu là quyển tiểu thuyết in bằng
chữ quốc ngữ, xuất hiện ở Nam ḱ năm
1887 với tựa đề Truyện thầy Lazarô
Phiền của Nguyễn Trọng Quản. Nhưng đến
giai đoạn 1900-1930 th́ thể loại tiểu thuyết
hiện đại mới phát triển trong phạm vi
cả nước. Những tên tuổi tiêu biểu là
Hồ Biểu Chánh, Trần Thiên Trung, Trương Duy
Toản, Hoàng Ngọc Phách, Trọng Khiêm, Nguyễn
Trọng Thuật... Chất văn xuôi, tính cách cá nhân phương
Tây c̣n ảnh hưởng đến cả lĩnh vực
sáng tác lâu đời trong văn học Việt Nam, đó
là thơ. Thơ Tản Đà, thơ Trần Tuấn Khải
trong giai đoạn này đă mang những giai điệu
mới.
Nghệ thuật sân khấu thời này cũng
xuất hiện các h́nh thức mới: Kịch, cải lương.
Kịch nói ra đời do có sự tiếp xúc với văn
hóa phương Tây. Lúc đầu xuất hiện
những vở kịch dịch từ tiếng Pháp, dần
dần về sau các nhà viết kịch đă tự sáng tác
và h́nh thành nên một phong trào sáng tác kịch. Thời này
có nhiểu vở kịch đă tạo nên tiếng vang
trong xă hội: Chén thuốc độc ( Vũ
Đ́nh Long ) ; Ông Tây An Nam (Nam Xương ) , Hoàng Mộng Điệp
( Vi Huyền Đắc ) ,...
Cải lương là một h́nh thức văn
nghệ dân gian ở Nam ḱ. Nó là sự kết hợp
giữa loại h́nh kịch nói với các h́nh thức ca hát
tài tử của dân gian. Đây là thể loại mới
xuất hiện từ khi có sự giao lưu với văn
hoá phương Tây .
Đầu thế kỉ XX , công tác dịch
thuật, biên khảo, nghiên cứu phê b́nh văn học
bắt đầu phát triển mạnh theo một chiều
hướng tiến bộ, đă để lại
nhiều công tŕnh đáng trân trọng làm cho văn
học Việt Nam tiếp xúc rộng răi với văn
học thế giới, giới thiệu với công chúng
Việt Nam nhiều thể loại mới, làm phong phú
vốn từ ngữ và trau dồi câu văn Việt Nam.
Ở giai đoạn này đă có diễn ra một
cuộc tranh luận về văn học rất sôi
nổi, tiêu biểu là cuộc tranh luận về
Truyện Kiều của Phạm Quỳnh với Ngô Đức
Kế và Huỳnh Thúc Kháng. Nội dung tư tưởng
của văn học giai đoạn này (trừ văn
học nô dịch) nổi bật ba xu hướng: Xu hướng
yêu nước, xu hướng lăng mạn, xu hướng
hiện thực . Xu hướng văn học yêu nước
có sự thăng trầm theo diễn biến của các
phong trào Cách mạng. Khi phong trào cách mạng dân chủ tư
sản lên cao, văn thơ yêu nước thuộc các
tổ chức này là những lời tố cáo tội ác
kẻ thù rất đanh thép. Nó là bức tranh phản ánh
thời sự của xă hội đương thời; là
những lời động viên kêu gọi toàn dân
chống giặc cứu nước. Đến lúc phong trào cách
mạng theo xu hướng tư sản bắt đầu
thất bại th́ tiếng nói yêu nước lại
bộc lộ bằng những h́nh thức khác nhau: Lối
nói bóng gió, lối gởi gắm kín đáo, lối dùng h́nh
ảnh tượng trưng hoặc mượn lời nhân
vật lịch sử để thổ lộ tâm t́nh
rất phổ biến.
Xu hướng hiện thực mới được
manh nha trong giai đoạn này qua một số tác phẩm
của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Hồ
Biểu Chánh, Vũ Đ́nh Long,... Các tác giả đă phanh
phui những xấu xa của xă hội thực dân nửa
phong kiến, phơi bày cảnh khổ của nhân dân.
Xu hướng lăng mạn được khơi
nguồn từ các tác phẩm của Đông Hồ, Tương
Phố, Tản Đà, Hoàng Ngọc Phách. Đấy là những
sáng tác đă gợi lên tiếng ḷng sâu kín, những
nỗi buồn đau và những mơ ước hảo
huyền của lớp người đang bi quan, chán
nản trước cuộc sống. Sự xung đột
giữa lễ giáo phong kiến cũ và chủ nghĩa cá
nhân bắt đầu xuất hiện.
Văn chương hiện thực và lăng mạn giai
đoạn này như khúc nhạc dạo đầu
chuẩn bị cho buổi hoà tấu sẽ được
diễn ra vào giai đoạn 1930 - 1945. Vào thập niên
thứ ba của thế kỉ đă xuất hiện các sáng
tác của Nguyễn Aïi Quốc được gởi
từ nước ngoài về như: Con rồng tre,
Nhật kí ch́m tàu, Bản án chế độ
thực dân Pháp, Đường Cách mạng ... Nguyễn Aïi
Quốc đă khai sinh cho ḍng văn học của giai
cấp vô sản của nước ta.
So với văn học và sân khấu th́ các ngành
nghệ thuật: hội hoạ, điêu khắc, kiến
trúc ... biến đổi chậm hơn. Lực lượng
chuyên nghiệp về mĩ thuật lúc này chủ yếu
vẫn là những nghệ sĩ dân gian. Bên cạnh đó
cũng có sự xuất hiện những thế loại
vay mượn từ phương Tây như tranh sơn
dầu, tranh bột màu với bút pháp tả thực. Nói
chung về nội dung, h́nh thức tính chất dân tộc
và đại chúng vẫn c̣n được duy tŕ
mạnh ở lĩnh
vực này.
Báo chí: Một sự kiện rất quan trọng không
chỉ ảnh hưởng trong đời sống xă
hội mà c̣n tác động đến sự phát
triển của văn học giai đoạn này là sự
ra đời và phát triển của báo chí. Báo chí đă
xuất hiện ở Nam ḱ từ cuối thế kỉ XIX
với tờ Gia Định báo (1865 ). Nhưng đến
đầu thế kỉ XX, báo chí mới phát triển
trong phạm vi toàn quốc và có những đóng góp đáng
kể cho văn học. Báo chí giai đoạn này không
chỉ là công cụ để thông báo tin tức, tuyên
truyền mệnh lệnh mà c̣n là nơi để công
bố những tác phẩm văn chương mới, nơi
để nhà văn thử nghiệm ng̣i bút của ḿnh. Báo
chí cũng là một phương tiện đặc
biệt cho công chúng học tập chữ quốc ngữ.
Những bài viết đăng trên báo cũng là những
bài tập đọc cho những người theo học
chữ quốc ngữ thời này. Năm 1913, Đông Dương
tạp chí ra đời. Năm 1917, Nam Phong tạp chí
được thành lập. Đây là hai tờ báo đă có
những đóng góp cho văn học giai đoạn này.
Sau đại chiến thế giới lần thứ
nhất, một số báo chí cách mạng, báo chí tiến
bộ hoặc có xu hướng tiến bộ lần lượt
xuất hiện như : Hữu
Thanh , Tiếng Dân, Đông Pháp thời báo, Phụ nữ tân
văn,... kể cả các tờ báo bí mật của
Thanh niên Tân Việt và báo tiếng Pháp như : Chuông
Rạng, An Nam ở Sài G̣n, Người
cùng khổ ở Pháp cũng được phát hành trong
giai đoạn này.
2.3- Vấn đề thẩm mĩ :
Cũng như mọi dân tộc khác, người
Việt Nam ta có ư thức thẩm
mĩ riêng của ḿnh. Ư thức thẩm mĩ
của người Việt Nam cũng vận động và
phát triển qua các chặng đường lịch sử
từ thời dựng nước
đến nay. Ư thức ấy nói chung là phát sinh từ
cuộc sống. Nó luôn luôn nằm trong sự biến
đổi, gạn lọc để đi lên nhưng nó
lại có chất bền vững để chịu đựng
với thử thách của thời gian và không gian.
Những nhân tố nào đă tạo nên môi trường
thẩm mĩ để cho con người nảy sinh ư
thức thẩm mĩ ? Đó chính là
thiên nhiên là vị trí địa lí , vị trí văn
hoá, là cộng đồng làng xă, là vận mệnh đất
nước, vận mệnh nhân dân [63 /107 ]. Ở giai đoạn
1900 - 1930, t́nh h́nh chính trị xă hội có nhiều
biến động
lớn lao như đă tŕnh bày, cho nên môi trường
thẩm mĩ không c̣n như trước nữa. Lối
sống tư sản đă
tấn công quyết liệt vào xă hội phong kiến
Việt Nam, cùng với nó là sự du nhập ồ ạt
của nền văn hoá phương Tây. Tất cả
đă làm thay đổi hẳn bộ mặt trang nghiêm
của xă hội phong kiến vốn tồn tại
vững chắc hơn 10 thế kỉ qua. Kẻ thù mang vào
đất nước chúng ta nhiều cái mới. Sự phát
triển của đô
thị tư sản đă
phá dần thế tự trị làng xă ngày trước.
Lối sống sôi động, gấp rút theo cường
độ của xă hội hiện đại đánh
mất những sinh hoạt gia đ́nh, họ tộc, làng
xă, vốn là một phương diện tạo nên các
mối quan hệ tốt đẹp của con người
được h́nh thành rất lâu. Đứng trước
những đổi thay của con người và xă
hội; đối diện với những cái xấu xa,
hợm hĩnh do thực dân Pháp đưa đến, con
người Việt Nam đă phản ứng quyết
liệt trong buổi đầu. Họ tỏ ra bực
tức, căm giận, không thể chấp nhận
nổi, lắm lúc phải hét to lên trong sự bất
lực :
Muốn
mù , trời chẳng cho mù nhỉ ,
( Trần Tế Xương )
Nhưng dù căm tức, dù bực bội đến
đâu họ vẫn phải sống với nó, phải thích
nghi với nó; dần dần lại b́nh thường hoá
trước cái xấu, cái lố lăng của phương
Tây, của xă hội tư sản. Cuối cùng , chính
những người nệ cổ nhất, những nhà nho
bảo thủ nhất cũng phải chạy theo cuộc
sống mới, phải học lối sống mới.
Trạng thái tâm lí của con người đă thay đổi
trước những biến
động trong xă hội, cho nên ư thức thẩm mĩ
của con người tất yếu cũng đổi
thay. Quan niệm về cái đẹp của cuộc
sống, của con người khác trước.
Và cũng chính v́ thế quan niệm về cái đẹp
trong nghệ thuật không giống như xưa nữa.
Thử nh́n lại trong lĩnh vực sinh hoạt đời
sống thường ngày như ăn, ở, mặc và
trong lĩnh vực nghệ thuật, ư thức ấy có
những biểu hiện mới nào?
Trước hết chúng ta bàn đến lĩnh
vực sinh hoạt. Biểu hiện
rơ nhất qua cái mặc . Người Việt Nam
vốn chuộng sự đoan trang và kín đáo trong cách
mặc. Áo dài của người
phụ nữ Việt Nam với
nét đẹp truyền thống thể hiện sự
mềm mại, uyển chuyển, thướt tha, êm
dịu, không khoe khoang mà lộng lẫy nay phải ở vào
thế bị cạnh tranh với chiếc váy đầm,
với quần Âu. Lẽ dĩ nhiên, cái mới vẫn c̣n
ở trong thế bị xem là hợm hĩnh nên không ít người
lúc bấy giờ đă mỉa mai:
Váy lĩnh cô kia quét sạch hè
( Trần Tế Xương )
Bộ đồ Âu phục , đôi giày Tây cũng làm
cho người đàn ông phải đắn đo cân
nhắc với
Áo hàng Tàu, khăn nhiễu tím, ô lục soạn xanh
.
Trong cách ở của người Việt Nam thời
này cũng có những thay đổi. Chen lẫn với
kết cấu nhà theo kiểu truyền thống là
những h́nh thức trang trí mới được học
tập từ phương
Tây. Cạnh những câu đối, hoành phi, những hương
án bàn thờ, trong gian nhà khách lại xuất hiện thêm
những bộ xa lông, những tủ chè không chạm tùng,
hạc, mai, lộc, bát tiên, tứ quư nữa mà chạm cành
nho, con sóc. Cái đồng hồ quả lắc được
chiếm một phần ở vách nhà trên... Cái đẹp
lúc bấy giờ không chỉ là sự trang nghiêm cổ kính
mà phải có phần lộng lẫy, mới lạ và có
chút ǵ đó xa hoa. Cuộc sống sôi động, chen chúc
phức tạp đ̣i hỏi người ta phải nhanh chóng
, gọn ghẽ, luôn luôn động [33/ 17 ]. Cái đẹp
cũng phải thích ứng với cuộc sống như
thế. Cuộc sống trong xă hội phong kiến vốïn
mang tính ổn định, trầm lặng. Con người
trong xă hội thời đó thường hướng
nội. Cái đẹp cũng được h́nh thành
từ tính cách và đặc điểm đó của con
người và xă hội. Trước kia, người ta
chuộng hàm răng đen rưng rức, người ta quư
cái môi trầu cắn chỉ và thấy tất cả
sự duyên dáng ở chiếc nón quai thao. Nhưng bây
giờ, để thích nghi với cuộc sống mới,
cái đẹp lại được thể hiện
với hàm răng trắng như ngà. Người ta không c̣n
ca ngợi mái tóc dài mà lại thích rẽ tóc lệch ... Nói
chung, quan niệm cái đẹp được quy định
lại theo những đổi thay của cuộc sống và
trạng thái tâm lí con người.
Trong lĩnh vực nghệ thuật chúng ta càng
thấy rơ điều này hơn. Ví dụ như lĩnh
vực hội hoạ. Ngày trước, con người phát
hiện ra nét đẹp từ những bức tranh dân gian
sinh động như tranh làng Hồ qua nét vẽ gợi
cảm, gợi ư, tập trung vào đề tài cuộc
sống và con người lao động... Xem tranh đó ta
không bao giờ thấy buồn, thấy chán ngán. Vẻ
đẹp của nó chính là sự kết hợp giữa
t́nh cảm chân thật với phong thái của dân tộc.
Giờ đây, người ta lại hướng đến
những bức tranh sơn dầu theo kiểu phương
Tây.
Đối với sáng tác văn chương, ngày trước
người ta quan niệm cái đẹp toát lên từ
sự hài hoà cân đối của một bài thơ Đường
luật, từ sự hoàn chỉnh của phép đối,
của cách gieo vần... Giờ đây, những yếu
tố đó đang chịu sự lấn át dần
bởi chất phóng khoáng , tự do vừa t́m thấy
được từ văn học phương Tây.
Theo quan niệm ngày xưa, ư thức thẩm mĩ
được biểu hiện qua lĩnh vực đời
sống vật chất và tinh thần của con người,
đồng thời cách ứng xử của người
Việt cũng thể hiện ư thức thẩm mĩ.Tạo
được sự hài hoà trong cuộc sống về
đạo lí ở lĩnh vực gia đ́nh, họ
tộc, cộng đồng làng xă cũng là một góc
thẩm mĩ không nhỏ. Đến giai đọan này
những quan niệm ấy vẫn được duy tŕ. Hơn
nữa, vào những năm này, đối với con người,
thiên nhiên vẫn c̣n là một nét thẩm mĩ lớn.
Sự sống không thể thiếu thiên nhiên, sự
sống dựa vào thiên nhiên , thiên nhiên làm đẹp
sự sống. Thiên nhiên vẫn c̣n tạo nên nguồn
cảm hứng sáng tác của văn thi sĩ. Nói chung, nó
vẫn c̣n gắn bó với con người như trước
.
Nh́n chung , ư thức thẩm mĩ của người Việt Nam ở giai đoạn 1900 - 1930 có những thay đổi. Sự thay đổi đó do hoàn cảnh chính trị, xă hội chi phối. Chúng ta phải thấy một điều : Nó cũng đang đứng trước sự gạn lọc, biến đổi. Và, chính cái chất vững bền đă giúp nó vượt qua mọi thử thách để giữ lấy những ǵ thuộc về truyền thống của dân tộc Việt Nam , không bị mất gốc , lai căng bởi ảnh hưởng tư tưởng văn hoá nước ngoài.
II.- T́nh trạng phân hóa trong văn
học giai đoạn 1900 - 1930 :
1. Lực lượng
sáng tác : |
TOP |
Trong thời kỳ trung đại,
nền văn học của ta có sự hiện diện
của cả hai lực lượng sáng tác: Lực lượng
nhà nho và lực lượng nông dân. Mỗi bên có công chúng,
đề tài, đời sống, phương thức
truyền đạt riêng, lư tưởng thẩm mĩ và
các thể loại thường dùng cũng khác nhau.
Lực lượng sáng tác của văn học
viết thời trung đại chủ yếu là nhà nho,
những trí thức phong kiến. Nhà nho thời phong
kiến có một địa vị đặc biệt trong
xă hội. Họ chỉ đeo đuổi việc học
chữ Hán. Họ rất am hiểu lời dạy của
thánh hiền, thông suốt các tín điều của nho giáo.
Kiến thức của nhà nho không vượt khỏi
phạm vi sách vở của thánh hiền. Lẽ tất nhiên
họ cũng am hiểu tường tận các chủ trương
của Lăo - Trang, thấm nhuần tư tưởng
Phật giáo. Có thể nói rằng việc học hành
của nhà nho theo tinh thần tam giáo đồng nguyên.
Nhà nho là những người thích "hành đạo".
Họ bước vào đời với ḥai băo
"phải có danh ǵ với núi sông". Họ học
thật chăm chỉ để thi đỗ đạt,
mong t́m chút danh phận rồi từ đó đem sức
lực cống hiến cho đời (dĩ nhiên đó là
những nhà nho chân chính) nhưng khi xă hội phong kiến
suy vi, nhà nho lại bất b́nh chán nản. Lúc ấy
họ tâm đắc với giáo điều của Lăo -
Trang. Họ thường t́m đến cuộc sống
ẩn dật. Nhưng họ cũng khó có thể quên
đời được, lại ray rức, trằn
trọc, lương tâm bị dằn xé như trường
hợp của Nguyễn Khuyến:
"Cờ đương giở
cuộc không c̣n nước
Bạc chửa thâu canh đă chạy
làng "
(Tự
trào)
Có
thể thấy một điều đặc biệt ở
nhà nho là họ thường hay băn khoăn về
vấn đề xuất xử và ở vào những giai
đoạn xă hội phong kiến suy vong th́ lối
sống ẩn dật là lối sống phổ biến
của những nhà nho có khí tiết. Thời kỳ ẩn
dật cũng là thời kỳ nhà nho sáng tác nhiều
nhất.
Đầu thế kỷ XX, giai đoạn
lịch sử đầy biến động, có sự chi
phối mạnh mẽ của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa, của văn học phương Tây,
lực lượng nhà nho không tách rời sự phân hóa:
* Có những nhà nho v́ yêu nước
thương dân, không cam tâm làm nô lệ đă tiếp
tục đứng lên chống Pháp (Phan Bội Châu, Ngô Đức
Kế, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng
Hiền, Huỳnh Thúc Kháng...) họ được
tiếp nhận và phát triển luồng tư tưởng
cách mạng từ châu Âu đưa đến. Họ
vừa họat động chính trị vừa sáng tác văn
chương. Buổi đầu khi phong trào cách mạng lên
cao, các nhà nho có nhu cầu đưa những vấn đề
mới của xă hội vào văn học nên họ sáng tác
say sưa. Bằng những cách tân nghệ thuật họ
nhiệt t́nh thể hiện những vấn đề
mới của xă hội, cuộc sống và con người.
Tác phẩm của họ thường phong phú về
số lượng, đa dạng về đề tài và có
những tác động mạnh mẽ đối với xă
hội, làm "dậy sóng" phong trào yêu nước lúc
bấy giờ. Ư thức hệ phong kiến không c̣n chi
phối tư tưởng của họ một cách
nặng nề như trước nữa. Họ không c̣n
muốn nói đến đạo lư thánh hiền và cũng
chẳng hề g̣ câu đẽo chữ để tạo
sự bóng bẩy cho bài thơ, bài văn. Họ chỉ hướng
đến một mục đích duy nhất : giải phóng
đất nước, xây dựng quốc gia hùng cường.
Đến giai đoạn thoái trào
của phong trào cách mạng, sau nhiều lần thất
bại, công cuộc đấu tranh giải phóng đất
nước theo con đường cách mạng dân chủ tư
sản không thành công, nhà nho cảm thấy buồn chán,
bi quan. Họ lại trở về với bản chất
của nhà nho trước kia: sống hướng nội,
thích bộc bạch tâm sự, hoài cổ, hay làm thơ
thuật hoài. Văn chương của họ lúc này
trở về với đặc điểm văn chương
ở thế kỷ trước. Nói chung, lực lượng
nhà nho tiến bộ này tuy đă được tắm
gội trong các phong trào cách mạng tư sản,
được hít thở không khí hiện đại
từ các sách tân thư, tân văn nhưng cái cốt cách
nhà nho của họ không thể nào biến dạng
được. Lực lượng nhà nho nêu trên khá đông
đảo, thơ văn của họ như một ḍng
chảy không ngừng, dù đă lạc hậu lỗi
thời nhưng vẫn tiếp tục duy tŕ cho đến
những năm ở thập niên thứ ba của thế
kỷ này.
* Bên cạnh những nhà nho cấp
tiến ấy, một số nhà nho khác "vẫn tự
hào về thơ phú, chữ nghĩa đạo lư thánh
hiền, vẫn làm thơ phú" . Nhưng xă hội
Việt Nam đầu thế kỷ XX đang trên con
đường tư sản hóa không dành chỗ cho
cuộc sống ẩn dật của nhà nho bất đắc
chí cho nên h́nh tượng người ẩn sĩ cũng
mất dần trong văn học.
* Vào giai đoạn này có xuất
hiện một số trường hợp nhà nho rời nông
thôn ra thành phố sinh sống bằng nghề viết văn.
Sống ở thành thị, giữa những người dân
thành thị dần dần bản thân họ cũng bị
thành thị hóa. Họ dùng những thể thức văn
học cũ để gởi gắm những cảm xúc cá
nhân, những cảnh vật và không khí thành thị.
Họ đă khai thác tất cả những kinh nghiệm sáng
tác trong văn học dân gian và các truyện nôm của các
nhà nho tài tử trước kia. Họ là những người
có đóng góp đáng kể cho tiến tŕnh hiện đại
hóa văn chương Việt Nam.
Đến đầu thế kỉ XX, nhà
nho không c̣n là lực lượng sáng tác chính. Bên
cạnh họ đă có xuất hiện một lực lượng
sáng tác mới. Đó là lực lượng trí thức tân
học. Đây là những người vừa mới
được đào tạo từ các trường Pháp -
Việt. Phần lớn trong số họ bắt đầu
từ công việc làm báo, có những nhà cựu học
viết bằng chữ Hán. Dần dần, theo con đường
dịch thuật, phỏng tác... họ chuyển từ
viết báo sang viết truyện ngắn, kịch, nhanh chóng
đáp ứng được đ̣i hỏi của công chúng
thành thị. Họ khác với các nhà nho cấp tiến,
chú trọng đến văn hóa hơn là chính trị. Nh́n
chung, họ là những người mạnh dạn đến
với cái mới. Tuy nhiên ở họ không tránh khỏi
những dằn dặt, trăn trở khi chọn cho ḿnh
một hướng đi để phù hợp với
sự phát triển của thời đại. Họ đến
với cái mới v́ ước nguyện dung ḥa hai nền
văn hóa Âu - Á.
TOP |
Quan
niệm sáng tác của văn học trung đại là quan
niệm của nhà nho, chịu ảnh hưởng nặng
nề của tư tưởng nho giáo, đến giai
đoạn này người sáng tác không theo duy nhất
một quan niệm như trước nữa.
- "Văn dĩ tải đạo",
"Thi ngôn chí" đó là quan niệm chủ yếu và
phổ biến của nhà nho trong thời kỳ trung đại.
Quan niệm đó vẫn tồn tại trong giai đoạn
1900 - 1930. Phan Bội Châu, một người có nhiều tư
tưởng tiến bộ nhưng vẫn vướng víu
với quan niệm cổ hủ này, khi cho rằng sáng tác
văn chương là để "lập công"
"lập chí", "lập ngôn". Tản Đà, người
đă mạnh dạn cách tân phương pháp sáng tác cũ,
tiến hành một cuộc cách mạng trong nghệ
thuật thơ ca nhưng vẫn có tư tưởng phân
biệt loại văn "vị đời" và "văn
chơi".
-
Vào giai đoạn này đă xuất hiện quan niệm sáng
tác mới, thể hiện ở nhiều phương
diện :
+
Quan niệm văn học phục vụ chính trị : chính
v́ ư thức được văn học phục vụ chính
trị- sáng tác văn chương nhằm tuyên truyền
vận động cứu nước- đă khiến nhà văn
phải quan tâm đến đối tượng công chúng
là toàn thể nhân dân, trong đó có cả quần chúng
lao động. Người sáng tác phải t́m mọi cách
để lưu truyền phổ biến tác phẩm
của ḿnh. Cho nên văn học không c̣n tính chất b́nh
kín trong một nhóm người nhỏ hẹp, mà nó đă
được công bố rộng răi bằng nhiều h́nh
thức. Giờ đây người ta t́m cách in ấn và
sử dụng in ấn để xuất bản tác
phẩm văn học. Khi đă có xuất bản th́ văn
chương không c̣n là của riêng ai hay của một
giai cấp nào, mà được xem là những giá trị
văn hóa của toàn xă hội.
+
Quan niệm về thể loại cũng khác trước,
tiểu thuyết và kịch được công nhận là
một thể loại văn học, không c̣n bị khinh
rẻ. Nho sĩ ngày trước chuộng thơ, gởi
gắm tâm hồn của ḿnh trong thơ, bộc bạch tâm
sự chí khí bằng thơ. Lớp nghệ sĩ mới hôm
nay lại say mê văn xuôi, hướng về văn xuôi
nhiều hơn. Họ nhận thấy văn xuôi có
nhiều khả năng phản ánh chân thật, cụ
thể đa dạng cuộc sống tư sản hóa đầy
những cảnh đời phức tạp, bon chen. Đối
với các nhà nho, vấn đề mô tả hiện
thực cuộc sống không phải là điều mà
họ quan tâm đến. Ngược lại các tư tưởng
của nền văn học mới để hết tâm
sức vào vấn đề phản ánh hiện thực.
Mặc dù vấn đề phản ánh hiện thực khách
quan trong văn học ở giai đoạn này c̣n bị
chi phối bởi quan niệm đạo đức nhưng
vẫn thể hiện được sự nâng cao vai tṛ
nhận thức của văn học đối với
cuộc sống ở họ so với trước.
+ Văn học trung đại sùng cổ nhân,
trọng quá khứ, nhân vật lư tưởng của nó là
những trang tài tử giai nhân hoặc anh hùng cái thế.
Nhưng nhân vật của văn học mới là
những con người rất b́nh thường, bao
gồm đủ mọi thành phần trong xă hội. Nói
chung nhân vật trong văn học mới rất đa
dạng, vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp
của văn học phong kiến. Chính thái độ tư
tưởng thẩm mĩ mới của các nhà văn
đối với cuộc sống và con người trong
giai đoạn này đă dẫn đến sự h́nh thành
chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lăng
mạn trong giai đoạn sau.
+ Đây cũng là một giai đoạn
xuất hiện quan niệm mới, xem việc sáng tác văn
chương là một nghề kiếm sống, "nôm na
phá nghiệp kiếm ăn xoàng" (Tản Đà).
Nh́n chung, sự phân hóa trong quan
niệm sáng tác "t́m thấy trong toàn bộ
đời sống của nền văn học mới,
trong loại tác giả này và loại tác giả khác, tuy cùng
thời nhưng khác nhau về quan điểm tư tưởng
- thẩm mĩ, về nguồn gốc xuất thân và
học vấn, tài năng, tuy hai b́nh diện đối
lập nhau của một thể thống nhất của
một tác giả" và "đó là một quá tŕnh lâu
dài, chồng chéo lên nhau, giằng co, tranh chấp giữa cái
cũ và cái mới" ("Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời", Trần Đ́nh Hựu
và Lê Trí Dũng, tr 318).
TOP |
Đầu thế kỉ XX, người
sáng tác không c̣n tuân thủ theo một hệ thống phương
pháp sáng tác duy nhất ấy nữa. Hoàn cảnh khách quan
và nhân tố chủ quan đă đẩy người sáng
tác đến sự lựa chọn khá gay go và phức
tạp: Bám lấy phương pháp sáng tác cũ hay đi
t́m phương pháp sáng tác mới. T́nh h́nh đó đă
tạo ra t́nh trạng phân hóa không thể tránh khỏi
trong phương pháp sáng tác.
+ Một số nhà nho đă chọn
con đường cách tân nghệ thuật sáng tác của
nhà nho. Họ vẫn theo phương pháp sáng tác cũ nhưng
có những đổi mới đáng kể.
+
Một số người thuộc lực lượng trí
thức tân học th́ chọn con đường học
theo phương Tây để sáng tác. Họ bắt đầu
từ công việc dịch thuật, qua phỏng tác và
cuối cùng là sáng tác.
Trong lịch sử văn học
Việt Nam đây là giai đoạn duy nhất có hiện
tượng đan xen hai yếu tố cũ và mới
thể hiện trong sáng tác của một tác giả, có
khi trong cùng một tác phẩm. Hai yếu tố cũ và
mới được kết hợp nhuần nhuyễn và
phổ biến trên khắp các thể loại tạo ra
những giá trị đặc biệt, không thể xếp
vào kho tàng văn học trung đại, mà cũng chưa
thể công nhận đó là một tác phẩm của
nền văn học hiện đại.
TOP |
Đối với văn học trung
đại, lực lượng sáng tác nhà nho cũng chính
là lực lượng công chúng của nền văn
học đó. Nhà nho khi sáng tác không hề nghĩ đến
công chúng và cũng không cần phải có công chúng. Người
thưởng thức văn thi phẩm của họ là chính
bản thân họ hay người tri kỷ của họ. Vào
đầu thế kỷ XX, lực lượng sáng tác nhà
nho vẫn c̣n, văn thơ của nhà nho vẫn hiện
diện trên văn đàn. Công chúng say mê văn chương
chữ Hán, chữ Nôm tất nhiên vẫn c̣n. Mặc dù
đă mất hết hào hứng của thời kỳ trước,
c̣n chăng chỉ là những h́nh ảnh của "Sĩ
khí rụt rè gà phải cáo" hay "Văn chương
liều lĩnh đấm ăn
xôi". Lực lượng công chúng này đang thu hẹp
dần. Sự tồn tại của họ chứng minh
cái t́nh nghĩa sâu nặng đối với Hán học
của một số người trí thức phong kiến.
Đứng trước những đổi thay của
thời cuộc, những con người này không muốn,
có thể chưa muốn chạy theo cái mới khi mà trong
suy nghĩ của họ vẫn c̣n quan niệm rằng
những thứ đó do giặc ngoại xâm mang đến,
những thứ đó là phi đạo đức, là trái
với thánh hiền.
Giữa
lúc văn học của nhà nho và lực lượng công
chúng của nền văn học đó đang suy yếu
dần th́ một lực lượng công chúng mới
bắt đầu xuất hiện. Công chúng mới (bao
gồm nhiều loại người khác nhau, đang
sống trong các đô thị thời đó, có các nhà nho
từ nông thôn ra có những người học vấn Tây
học và cả những người không học vấn)
không thấy hấp dẫn trước món ăn tinh
thần của nhà nho. Cuộc sống hiện đại là
cuộc sống sôi động, gấp rút. Văn chương
của nhà nho không phù hợp với cuộc sống
hiện đại.
Thế là ở hai địa bàn khác nhau, nông thôn và thành thị có sự hiện hữu của hai loại công chúng khác nhau. Lớp công chúng cũ vẫn trung thành với nền văn chương cũ. Lớp công chúng mới, chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, của cuộc sống mới, có nhu cầu thị hiếu mới, đ̣i hỏi sự đổi mới của văn học; đặt ra cho người sáng tác nhiệm vụ phải thay đổi quan niệm sáng tác, phương pháp sáng tác nhằm tạo cho họ những món ăn tinh thần thú vị hơn, phù hợp với thời đại mới. Hai loại công chúng này mang trạng thái tâm lư khác nhau, sống trong hai điều kiện khác nhau, lại tồn tại song song trong xă hội thực dân nửa phong kiến đầu thế kỷ XX. Lớp công chúng mới ngày càng phát triển. Hơn nữa, khi lớp thanh niên lớn lên, nhiều người đi học chữ Pháp, được đào tạo theo nền giáo dục mới sẽ quên dần thứ chữ truyền thống của cha ông, văn chương truyền thống cũng trở thành xa lạ đối với họ. Trong khi đó, lớp nhà Nho và những người theo họ vẫn chỉ thừa nhận thứ văn chương là thơ, phú, lục. Nhưng liệu họ có thể bám măi với ngôi nhà cổ kính, ngày càng vắng khách lui tới của nền văn chương chữ Hán này không ? Bởi v́, càng ngày người ta càng tỏ ra thích thú say mê nhiều hơn với những tác phẩm văn học phương Tây, thơ Lamartin, kịch Molie, Cornây vẫn hấp dẫn, lôi cuốn độc giả hơn thơ Nguyễn Trăi hay văn của Trương Hán Siêu. Điều muốn nhấn mạnh ở đây là sự tồn tại song song của hai loại công chúng khác nhau, trong cái thế một bên đă ít nhưng chưa mất hẳn; một bên dù mới xuất hiện nhưng rất mạnh và có điều kiện để phát triển nhanh. Đây là một hiện tượng chỉ xảy ra trong văn học giai đoạn giao thời của lịch sử văn học Việt Nam.
III.- Đầu thế kỉ XX văn
học Việt Nam đi vào con đường hiện
đại hóa.
TOP |
Văn chương hiện đại
là nền văn chương mới về nội dung tư
tưởng cũng như h́nh
thức nghệ thuật mà theo chúng tôi đă có mầm
mống từ đầu thế kỉ XIX song h́nh thành và
phát triển chủ yếu trong phạm vi thế kỉ XX
(chuyên đề "Sự chuyển biến của văn
học Việt Nam sang thời kỳ hiện đại")
(Trần Thanh Đạm, trang 25).
TOP |
2.1 Thế nào là hiện đại hóa
của văn học ?
- Giáo sư Trần Thanh Đạm có
viết : "V́ tính chất hiện đại của nó
không được h́nh thành trong một ngày, một tháng,
một năm cho nên mới đặt vấn đề :
Hiện đại hóa và tiến tŕnh hiện đại hóa"
(Tài liệu đă dẫn).
- Giáo sư Trần Đ́nh Hươûu
đă giải thích cụ thể hơn : "Quá tŕnh
hiện đại hóa văn
học là quá tŕnh xóa bỏ quan niệm xă hội luân thường
với con người đạo đức và chức năng
h́nh thành quan niệm xă hội, quan niệm con người,
quan niệm cuộc sống chi phối việc thay đổi
đề tài văn học. Người sáng tác phải chú
ư đến người, đến việc và phải
quan tâm đến cốt truyện, đến nhân vật,
phải quan tâm đến nhận thức, đến xây
dựng. Đó là quá tŕnh biến dạng, tha hóa ba mẫu nhân
vật : Nho gia, người ẩn sĩ và người tài
tử tồn tại mấy trăm năm trong văn
học bác học. Đó là cụ thể hóa, đa dạng hóa
các nhân vật của xă hội cũ : Vua, quan Tuần,
quan Huyện, quan Nghè, Thầy Đồ, ông Lư, người nông
dân. Đó là quá tŕnh xuất hiện ngày càng nhiều
những nhân vật thành thị : Thầy Thông, Thầy Kư,
ông Thầu Khoán, cậu học tṛ, người dân lao
động, người công nhân, cô tiểu thư và cô gái
mới. Cuộc sống trong văn học cũng dần
dần phức tạp, đa dạng, nhiều màu sắc
như cuộc sống thực và để thể hiện
nó, thể loại, phương pháp sáng tác, tiêu chuẩn
thẩm mĩ cũng kịp thời thay đổi theo"
(Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, trang 25)
2.2-V́
sao có yêu cầu hiện đại của văn học
Việt Nam ở đầu thế kỉ XX ?
+ Khách
quan : hoàn cảnh xă hội, sự thay đổi trong tư
tưởng, văn hóa đă tạo cơ sở cho
việc hiện đại hóa của nền văn học
Việt Nam ở đầu thế kỉ XX.
- Xă hội : Sự thay đổi
về h́nh thái xă hội là một yếu tố quan
trọng đă ảnh hưởng đến sự thay
đổi của nền văn học Việt Nam. Đó là
sự thay đổi từ xă hội phong kiến sang xă
hội thực dân nửa phong kiến. Đặc trưng
của xă hội thực dân nửa phong kiến là có
sự hiện diện của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa mang h́nh thức thuộc địa,
đă gây biến đổi lớn trong cơ cấu xă
hội, làm ảnh hưởng đến tâm lư sống,
điệu sống, cách sống, nhịp sống của toàn
xă hội, trước hết là ở thành thị. Nhà văn
sống trong xă hội có những biến đổi
lớn lao như thế cũng bị chi phối cách
sống, cách nghĩ, cách cảm.
- Xă
hội thực dân nửa phong kiến, thành thị, đă
phát triển nhanh tạo nên lối sống thành thị
hiện đại, sôi động, khẩn trương.
Từ điều kiện của văn minh thành thị
sự giao lưu mọi mặt trong nước và ngoài nước
cũng được thay đổi, không c̣n bị
giới hạn trong phạm vi khu vực mà vươn
tới phạm vi ṭan cầu.
- Tư tưởng, văn hóa :
Từ đầu thế kỉ XX,
trong phạm vi cả nước, đời sống văn
hóa tư tưởng của người Việt Nam đă
bắt đầu thay đổi. Có sự chuyển
biến từ ư thức hệ phong kiến sang ư thức
hệ tư sản. Ư thức hệ phong kiến vẫn c̣n
tồn tại nhưng mất địa vị độc
tôn, độc quyền. Ư thức hệ tư sản
mới được h́nh thành và bắt đầu mâu
thuẫn với ư thức hệ phong kiến, đang
từng bước chiếm dần vị trí trong xă
hội.
Đầu thế kỉ XX nền văn
hóa phương Tây đă được du nhập vào
Việt Nam ồ ạt, trong phạm vi cả nước.
Cuộc giao lưu văn hóa lần này có nhiều mới
mẻ so với trước
kia, mà nổi bật là vượt ra khỏi phạm vi khu
vực để vươn đến toàn cầu.
+
Chủ quan : sự vận động và phát triển
của văn học là một nhu cầu tất yếu.
3. Vấn đề hiện đại hóa của văn
học Việt Nam ở 30 năm đầu thế kỉ
XX : |
TOP |
-
Vấn đề hiện đại hóa của văn
học Việt Nam ở đầu thế kỉ XX đă
diễn ra theo hai bước :
+
Bước 1 -Từ năm 1900 đến 1920:
Ở giai đoạn này văn học đă đổi
mới về nội dung. Các vấn đề thuộc
về ư thức hệ, lư tưởng chính trị xă
hội, t́nh cảm cụ thể... là những vấn
đề mà chúng ta có thể nhận thấy dễ dàng.
Ví dụ : về ư thức hệ, văn học
ra đời trong giai đoạn này phần lớn
chiûu sự chi phối bởi ư thức hệ tư
sản, trong khi các sáng tác ở thời trung đại
chịu sự chi phối của ư thức hệ phong
kiến; về lư tưởng chính trị xă hội,
chủ nghĩa yêu nước đă gắn với lư tưởng
cách mạng dân chủ tư sản, khác với văn
học trung đại
chủ nghĩa yêu nước không thể tách rời lư tưởng
tôn quân...
Về mặt nghệ thuật, văn
học giai đoạn 1900 - 1920, trong phạm vi cả nước,
chưa có những đổi mới đáng kể. Các tác
giả chỉ dừng lại ở mức độ cách tân
nghệ thuật sáng tác của nhà nho trước kia. Tiêu
biểu nhất là thơ văn yêu nước và cách
mạng. C̣n nhiều tác phẩm thể hiện những
vấn đề mới của cách mạng bằng h́nh
thức nghệ thuật cũ. Các tác giả c̣n ít dùng
chữ Quốc ngữ
để sáng tác ,chưa bỏ được lối văn
biền ngẫu, thơ vẫn là một thể
loại được ưa chuộng,
ngôn ngữ vẫn c̣n mang tính chất cầu kỳ,
bóng bẩy... Trường hợp những bài thơ
bị pha trộn một vài câu hoặc một đoạn
thơ chữ Hán cầu kỳ, khó hiểu khá phổ
biến trong giai đoạn này. Ví dụ : "Bài hát khuyên nhà nho" -
(Khuyết danh) là một minh chứng cụ thể:
"Chữ duy tân
gác để ngoài tai
Đăn ngôn vũ
trụ giai ngô sự
Khẳng hứa sơn
hà thuộc bỉ cường
Khuyên ai mà có chí
cải lương
+ Bước 2 - Từ
năm 1920 - 1930: Văn học ở giai đoạn này không
chỉ đổi mới về nội dung mà cả
nghệ thuật cũng đă khác trước rất
nhiều. Văn học đă mang tính hiện đại rơ
rệt nhưng yếu
tố trung đại vẫn c̣n tồn tại xen kẽ,
khá phổ biến từ nội dung đến h́nh
thức. Ví dụ : "Tố Tâm" - Hoàng Ngọc Phách,
các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, thơ
Tản Đà đều có mang đặc điểm nói trên.
Đề cập đến công cuộc
hiện đại hóa văn học ở giai đoạn này,
chúng ta thấy vai tṛ của văn học hợp pháp
được thể hiện rất rơ. Ở bộ
phận văn học này, tất nhiên không thể tránh
được hạn chế do hoàn cảnh hoạt động
văn học trong ṿng luật pháp của chính quyền
thực dân.
- Kết quả của quá tŕnh
hiện đại hóa văn học ở giai đoạn
1900 - 1930 : Mặc dù đây chỉ là chặng đường
đầu của tiến tŕnh hiện đại hóa văn học Việt Nam nhưng nó cũng
gặt hái được những kết quả đáng
kể, tạo cơ sở vững chắc cho chặng
đường tiếp theo. Trước hết, nó đă
đóng góp tích cực vào công cuộc hiện đại
hóa văn học bằng sự thay đổi hệ ư
thức trong văn học theo hướng tiên tiến. Nó
cũng có vai tṛ trong việc đổi mới thi pháp văn
học. Mặt khác, công cuộc hiện đại hóa văn
chương ở giai đoạn này đă đưa
nền văn học nước ta đi vào quỹ đạo
của nền văn học thế giới.
TOP |
1.1- Lực lượng sáng tác : Lực lượng
sáng tác chủ yếu của ḍng văn học
yêu nước và cách mạng giai đoạn 1900 - 1930 là
các nhà Nho. Nhưng đây là những nhà nho có tư tưởng
tiến bộ. Họ là những người trực
tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào các phong trào cách
mạng lúc bấy giờ. Họ cũng từng là
những "chí đồ đệ" của Khổng
Tử nhưng lập trường tư tưởng
của họ khác với lớp nhà nho trước kia.
Họ đă được tiếp nhận các luồng tư
tưởng tiến bộ từ nước ngoài
truyền vào, thông qua sách báo, mà tiêu biểu là tân thư
và tân văn. Họ quan niệm văn chương cũng
là một loại vũ khí đánh giặc cứu nước,
cho nên họ đă sáng tác văn chương để
phục vụ cho hoạt động chính trị. Đó là
những người như Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng
Hiền, Nguyễn Quyền,.....
Quần chúng lao động cũng là
những người sáng tác tích cực của bộ
phận văn học yêu nước và cách mạng ở
giai đoạn này.
Ngoài ra c̣n có một lực lượng
không nhỏ những tác giả mà chúng ta chưa được
biết tên tuổi. Tác phẩm của họ có nội
dung thể hiện tinh thần yêu nước thiết tha,
ư chí đấu tranh chống giặc đến cùng, V́
muốn tránh sự theo dơi của mật thám, họ thường
dấu tên họ và bí mật phổ biến tác phẩm
của ḿnh.
1.2-
Những bước thăng trầm của văn học
yêu nước và cách mạng giai đoạn 1900 - 1930 :
- Từ năm 1905 đến 1908, thơ
văn yêu nước và cách mạng theo xu hướng dân
chủ tư sản phát triển cao. Có văn thơ
của phong trào Đông Du, có văn thơ của Đông Kinh nghĩa
thục, văn thơ chống thuế ở Trung Kỳ. Người
sáng tác bao gồm cả sĩ phu và quần chúng lao động.
Văn thơ Đông Du chủ yếu
từ nước ngoài gửi về nên có điều
kiện nói mạnh, nói trực tiếp những vấn
đề muốn nói, nh́n chung thể hiện tinh thần
lao động chống Pháp. Hai cây bút trụ cột
của văn thơ Đông Du là Phan Bội Châu và Nguyễn
Thượng Hiền.
Văn thơ của phong trào Duy Tân,
tiêu biểu là Đông kinh nghĩa thục thiên vào nội
dung cải cách xă hội, thể hiện tinh thần yêu nước,
nêu lên các quan niệm mới mẻ về đất nước,
xă hội, nhân sinh... Đóng góp nhiều cho văn thơ
của phong trào Duy Tân phải kể đến Phan Chu
Trinh, Nguyễn Phan Lăng, Lê Đại, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô
Đức Kế... Bên cạnh đó c̣n có một số tác
giả không cho biết tên, như tác giả của các
bài "Văn minh tân đọc
sách", "Cáo hủ lậu văn", Bài ca Aï tế
á"......
Văn thơ của phong trào chống
thuế ở Trung Kỳ phần lớn không rơ tên tác
giả và dần dần nó đă ḥa nhập vào kho tàng văn
học dân gian. Số văn thơ này như: Ca dao
chống áp bức bóc lột, Bài vè sưu thuế lạm
thu, Vè thuế nặng, Bài hát
xin xâu.v.v... Đặc điểm nổi bật của
bộ phận thơ văn chống thuế ở Trung
Kỳ là phản ánh một cách sâu sắc nỗi khổ
của nhân dân.
Nh́n chung, trong khoảng thời gian
này số người tham gia sáng tác thơ văn yêu nước
rất đông, lượng tác phẩm ra đời cũng
rất nhiều. Hơn nữa, vấn
đề lưu truyền phổ biến cũng khá
rầm rộ. Người ta làm đủ mọi cách
để các tác phẩm đến được với
độc giả. Người ta dịch ra quốc âm,
chép tay rồi chuyền cho nhau hoặc c̣n đưa vào chương
tŕnh giảng dạy ở trường Đông Kinh nghĩa
thục.v.v... Với nội dung yêu nước tiến
bộ, hừng hực tinh thần
cách mạng, ư chí quyết tâm đánh giặc, thơ
văn yêu nước ra đời trong giai đoạn này
đă tạo ra những ảnh hưởng lớn, có
lợi cho phong trào cách mạng.
- Từ năm 1908 đến năm
1912, văn thơ yêu nước và cách mạng rơi vào
t́nh trạng bế tắc. Cuối năm 1908, cách mạng
bị khủng bố, chính lúc đó thơ văn yêu nước
cũng bắt đầu lâm vào t́nh thế khó khăn.
Số lượng tác phẩm ra đời rất ít,
chất lượng cũng giảm sút rơ rệt.
Các nhà nho tham gia phong trào Đông Du, trong
cơn thất vọng nhất thời, không c̣n cảm
hứng để sáng tác. Phan Bội Châu phải chạy
trốn sang Thái Lan, nghiên mực tàu của ông dường
như khô cạn.
Các sĩ phu thuộc nhóm Đông kinh nghĩa
thục th́ phần lớn bị bắt, bị đày ra
Côn Đảo. Lúc đầu thơ văn yêu nước theo
các chí sĩ vào nhà tù cũng được phát triển
khá cao, nhưng dần dần về sau cũng giảm sút
cả về số lượng lẫn chất lượng.
- Năm 1912, Việt Nam quang phục
hội ra đời, khí thế cách mạng có chiều hướng
bùng lên sau những ngày tạm lắng. Một số thơ
văn hiệu triệu cách mạng lại xuất
hiện. Văn học yêu nước và cách mạng ra
đời trong thời điểm này, tiếp tục
thể hiện những nội dung cũ, nhưng đă
bắt đầu mang âm điệu khác trước, tính
chất cổ động, khích lệ
đấu tranh có
phần giảm sút, để rồi sau đó bộ
phận văn học này trở về với t́nh
trạng lơ thơ, khí thế sôi nổi, hừng
hực tinh thần cách mạng mất dần.
Nh́n chung thơ văn cách mạng từ sau khủng
bố của giặc Pháp, năm 1909 vẫn tồn
tại, nhưng chất lượng
và số lượng không bằng những năm trước
đây. Trong khi đó văn thơ châm biếm thời
thế, đả kích bọn quan lại, tay sai, thổ
lộ chút ḷng thương nước, thương dân,
khóc những nhà cách mạng hy sinh trong các cuộc
khủng bố của quân thù.... của những cây bút
không tham gia cách mạng nhưng ít nhiều có tinh thần
dân tộc vẫn tiếp tục ra đời, mặc dù
không có những bài thật xuất sắc. Tuy nhiên,
số tác phẩm nói trên chưa sưu tầm được
đầy đủ, nói chung là chưa thể khôi
phục lại đầy đủ bộ mặt văn
học của quần chúng yêu nước hồi này. Nhưng
có thể khẳng định ở chặng này cũng như
các chặng khác, ḍng văn học dân gian tố cáo
sự bóc lột của kẻ thù, phơi bày tội ác
của quần chúng vẫn không vơi cạn.
- Sau đại chiến thế giới lần thứ
nhất, phong trào ái quốc dân chủ lại sôi nổi
trong cả nước nhưng chỉ giới hạn ở
các đô thị. Văn thơ yêu nước lại phát
triển cùng với phong trào cách mạng mang tính chất
đ̣i tự do dân chủ theo xu hướng tư sản.
Văn thơ cách mạng bấy giờ trở lại
thời kỳ sôi nổi, rầm rộ, có thơ văn
trong nước và cả thơ văn từ nước
ngoài đưa về, có thơ văn phổ biến bí
mật và cả thơ văn phổ biến công khai. Văn
thơ công khai phần lớn xuất hiện trong phong trào
ái quốc dân chủ 1925 - 1926, xoay quanh các sự kiện
chính, đ̣i thả Phan Bội Châu, để tang Phan Chu
Trinh, học sinh băi khóa, cùng với việc Khải
Định đi Pháp và việc hắn làm lễ tứ
tuần đại khánh. Ngoài ra, trên văn đàn công
khai, Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng c̣n đả
kích quyết liệt bọn bồi bút của Pháp. Mặc
dù văn học cách mạng ở giai đoạn này có
chiều hướng khởi sắc, phát triển về
số lượng và chất lượng, mang nhiều
sắc thái mới nhưng vẫn không sao sánh bằng giai
đoạn 1905 - 1908.
- Những năm cuối của thập niên thứ
ba, văn học yêu nước và cách mạng theo xu hướng
cách mạng tư sản dần dần xuống dốc. Trước
khi mất hẳn, nó cũng góp phần sưởi ấm
cho những tâm hồn buốt lạnh và là tiếng nói
của dân tộc trong những ngày chờ đón luồng
tư tưởng mới nhất của thời đại,
tư tưởng cách mạng vô sản.
Cũng trong thời gian này, mầm mống của văn
học cách mạng theo xu hướng vô sản đă
được nảy nở. Đặc điểm của văn
học này là c̣n ít tính chất văn nghệ, nhiều
tính chất chính trị nhưng nội dung đă tiến
bộ hơn hẳn ḍng văn học tư sản cùng
giai đoạn.
1.3- Nội dung của văn học yêu nước và
cách mạng :
* Thể hiện tư tưởng yêu nước
tiến bộ:
Văn học yêu nước và cách mạng đă
nêu lên quan niệm mới về đất nước,
về yêu nước. Các nhà nho yêu nước và cả
nhân dân ta sống trong điều kiện ư thức hệ
phong kiến thống trị không thể nào quan niệm có
nước lại không có vua. Nước là của vua,
yêu nước tất phải yêu vua, yêu vua là yêu nước.
Vấn đề là cần có vua sáng để có tôi
hiền. Sang đến đầu thế kỷ XX, chế
độ thực dân nửa phong kiến đă ra đời
và thay thế chế độ phong kiến, trạng thái
ư thức của xă hội cũng chuyển biến theo.
Sự có mặt của ư thức hệ tư sản là
một nhân tố mới có vai tṛ quan trọng trong đời
sống tinh thần của xă hội. Quan niệm của
các tác giả văn thơ cách mạng về quốc gia
đă khác trước. Nước không c̣n là của vua,
vua và nước không c̣n là một. Có thể có nước
mà không có vua. Yêu nước không nhất thiết
phải yêu vua. "Trung quân ái quốc" hai cái tách
rời nhau. Chủ nghĩa tôn quân đang dần dần
bị loại trừ và như thế, nói đến nước
sẽ là nói đến non sông, ṇi giống, nói đến
dân tộc, đồng bào. Trước kia, nghĩa quân
thần, đạo thần tử có thể là động
lực kích thích tinh thần đấu tranh:
Kiến nghĩa ninh cam bất dũng vi
Toàn bằng trung hiếu tác nam nhi
bắt
đầu trở thành vô nghĩa. Văn thơ yêu nước
đi t́m sức mạnh từ nhiều nguồn. Từ
những truyền thuyết thần thoại đề cao
ṇi giống, từ ḷng tha thiết với vẻ đẹp
của non sông gấm vóc, từ thái độ trân
trọng cái địa vị của đất nước,
cơ nghiệp của cha ông đă nhiều thế hệ
nối tiếp nhau xây dựng, đặc biệt là
niềm tự hào về truyền thống anh hùng chống
giặc ngoại xâm.
Nọ
thưở trước
đánh tàu mấy lớp
Cơi trời Nam cơ
nghiệp mở mang
Sông Đằng
lớp sóng Trần vương
Núi Lam rẽ khói
mở đường nhà Lê
Quang Trung đế
từ khi độc lập
Khí
anh hùng đầy lấp giang san
Tự hào về đất nước
các tác giả không c̣n ca ngợi các bậc thánh đế
anh hùng xuất chúng, mà họ đă đi đến
khẳng định vai tṛ của nhân dân, của
"ức triệu anh hùng vô
danh." Nh́n chung, văn thơ yêu nước đă
khẳng định một vấn đề rất
mới mẻ: Đất nước là của dân, yêu nước
là phải yêu dân.
"Nước
Việt Nam là của gia tài,
Cả quyền
lợi với đất đai
Của dân nào
phải riêng ai một nhà."
(Lời tuyên cáo của Việt Nam quang phục
hội- Hoàng Trọng
Mậu).
Hoặc :
Nước
có mạnh th́ dân mới mạnh
Dân
có khôn th́ nước mới khôn
( Kinh đạo
nam _ khuyết danh )
Trong thơ văn yêu nước
ở đầu thế kỷ XX, vấn đề yêu nước
c̣n được gắn liền với vấn đề
cách mạng. Chống giặc ngoại xâm, giải phóng
đất nước đó là chuyện chung của
nhiều thời đại có ngoại xâm. Nhưng
chống giặc để rồi không trở lại
chế độ phong kiến mà tiến lên xây dựng
chế độ dân chủ tư sản là một đổi
mới trong lịch sử của dân tộc. Đó cũng là
nội dung chủ yếu của văn thơ cách mạng
giai đoạn 1900 - 1930. Điều này đă được
khẳng định trong "Lời tuyên cáo của
Việt Nam quang phục hội":
Muốn
cho ích nước lợi nhà
Muốn cho ích nước lợi nhà
(Hoàng Trọng Mậu)
nhưng chuẩn
bị cho nó th́ đă từ văn thơ của phong trào
Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và phần nào cả văn
thơ Đông Du.... Ở đây song song với nội dung kêu
gọi chống Pháp, c̣n có nội dung cải cách xă
hội nhằm làm cho nước giàu dân mạnh. Hai
nhiệm vụ đó quan hệ mật thiết với
nhau, hỗ trợ cho nhau.
Yêu nước bấy giờ
được biểu hiện bằng hành động
cụ thể là tham gia đánh giặc cứu nước
và tiến hành cải cách xă hội.
Vào đầu thế kỷ XX ,vấn đề căi
cách xă hội được đặt ra với mục
đích làm cho dân giàu nước mạnh , được
thực hiện song song với nhiệm vụ đánh Pháp
Trong thơ văn yêu nước,
đầu thế kỷ XX, yêu nước và vấn đề
dân chủ gắn liền nhau. Xuất phát từ quan
niệm mới về đất nước, yêu nước
các tác giả đă đi đến khẳng định
quyền làm chủ của người dân trong xă hội,
đồng thời cũng khẳng định vai tṛ
của người dân trong sự nghiệp cứu nước.
Mục đích cứu nước lúc bấy giờ là v́
dân chứ không phải v́ vua. Phan Bội Châu đề cao
địa vị của người dân trong công cuộc
xây dựng nước nhà :
Ngh́n muôn ức triệu người
chung góp
Xây
dựng nên cơ nghiệp nước nhà.
Người
dân ta của dân ta,
Dân
là dân nứơc , nước là nước dân
Và
khẳng định :
Sông
xứ Bắc ,bể phương Đông
Nếu
không dân cũng là không có ǵ
Người dân đứng lên
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước
là thực hiện bổn phận đồng thời
thể hiện tinh thần làm chủ của ḿnh. Thơ văn
yêu nước thường nhắc đến các khái
niệm "đồng bào, đồng quốc" xác
lập nên một chữ "nghĩa" - nghĩa đồng
bào khác hẳn với chữ "nghĩa" trong văn
học trung đại.
* Thời sự chính trị trong văn
chương đầu thế kỷ XX.
Xă hội Việt Nam vào những năm cuối
thế kỷ XIX là một bầu trời đen kịt.
Chính quyền phong kiến đương thời có
thể làm ngơ, ngồi yên trên ngai vàng để hưởng
thụ, nhưng nhân dân Việt Nam những người
yêu nước Việt Nam th́ không thể nào nhắm
mắt, khoanh tay. Ngọn cờ Cần vương vừa
ngă xuống, thanh niên lại xông xáo đi t́m một hướng
cứu nước mới. Phong trào yêu nước Duy Tân
và cách mạng như một tia sáng bừng lên vào đầu
thế kỷ XX. Tia sáng ấy dù mong manh, yếu ớt và
sớm tắt đi nhưng cũng đủ xoa dịu
những khó khăn, căng thẳng, đợi chờ
của đồng bào Việt Nam sau nhiều năm dài
chống giặc liên tiếp thất bại. Văn chương
yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ
đă phản ánh kịp thời và phát ngôn cho các phong
trào cách mạng lúc bấy giờ. Đó là phong trào yêu nước
dưới sự lănh đạo của các sĩ phu
cấp tiến đi theo con đường cách mạng
dân chủ tư sản.
Như những thước phim thời sự hấp
dẫn, sinh động, văn chương yêu nước
đầu thế kỷ XX đă ghi nhận kịp
thời các diễn biến và tái hiện trọn vẹn gương
mặt của xă hội Việt Nam vào những năm
đầu thế kỷ XX. Sau khi kết thúc công cuộc
b́nh định ở cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, Pháp đă bắt tay ngay vào việc khai
thác thuộc địa tại Việt Nam. Một chế
độ cai trị và bóc lột hà khắc đă
diễn ra. Người dân Việt Nam mất hết
chủ quyền. Mọi thứ đều do người
Pháp cai quản, giai cấp thống trị phong kiến
đương thời chỉ giữ
nổi vai tṛ bù nh́n mà thôi. Để thực hiện
chủ trương vơ vét, bóc lột ở các thuộc
địa, thực dân Pháp đă thi hành chính sách thuế
khóa rất nặng nề, hàng trăm thứ thuế cay
nghiệt đă được áp dụng. Nó như
những sợi dây tḥng lọng vô h́nh xiết chặt
lấy người dân Việt Nam vô tội. (Hải
ngoại
huyết thư- Phan Bội Châu).
Thực dân Pháp c̣n t́m cách đẩy những người
dân vô tội vào nơi ma thiêng nước độc
để đào sông, đào mỏ, làm đường.
Thân phận của người đi phu không khác ǵ anh tù
khổ sai:
Cậu lính áp
sau."
do
bị vắt kiệt sức lao động, sống trong
màn trời chiếu đất, "ăn cơm với
muối, uống nước
chè trâm."
Điều đáng sợ, làm cho con người kinh hăi
là chính sách ngu dân bằng con đường "khai
hóa" của thực dân. Song song với những lời
lẽ mỵ dân thâm độc là hàng loạt chủ trương
nham hiểm, xảo quyệt được thực
hiện. Một mặt chúng tỏ ra như muốn bảo
vệ những giá trị văn hóa của dân tộc, nhưng
mặt khác chúng lại ra sức xây dựng một
nền giáo dục mới. Nội dung của chương
tŕnh học mới tất nhiên là nhằm mục đích
đào tạo những phần tử tay sai trung thành,
phục vụ cho chế độ bảo hộ. Ngoài ra
các cơ quan báo chí do Pháp thành lập lần lượt
ra đời ở cả ba kỳ Nam, Trung, Bắc. Báo chí
là cơ quan tuyên truyền của thực dân, nơi
phổ biến đường lối, chính sách cai trị
của chúng. Tất cả những việc làm của
thực dân đă biến Việt Nam từ một quốc
gia phong kiến tự chủ trở thành một thuộc
địa của chủ nghĩa tư bản. Đó là
tấn bi kịch của dân tộc Việt Nam khi bước
vào thế kỷ XX.
Thế kỷ XX được mở đầu
bằng trang sử đau thương mà rất hào hùng.
Cao trào cách mạng đầu thế kỷ XX như
một làn gió mạnh thổi khắp ba miền của
đất nước. Các nhà nho ta trước kia chỉ
biết nghiên cứu sách vở thánh hiền, "Chăm
chăm theo lối học Tàu", không biết ǵ xa hơn
ngoài văn minh Á Đông, tiêu biểu là Trung Quốc. Ngày
nay, qua Tân thư, Tân văn, tầm nh́n của các cụ
mở rộng ra tận năm châu bốn biển. Các
cụ được biết đến khoa học kỹ
thuật hiện đại. Các cụ đă thấy
được một điều rất quan trọng:
Cứu nước không chỉ là đánh đuổi
giặc ngoại xâm mà c̣n là đánh đuổi nghèo nàn
và lạc hậu, là xây dựng một xă hội cường
thịnh bắt kịp đà tiến triển của văn
minh Âu Mỹ. Cũng chính v́ vậy mà nếu như phong
trào yêu nước ở cuối thế kỷ XIX kết
hợp với tinh thần bài ngoại th́ tư tưởng
Duy Tân ở giai đoạn đầu thế kỷ XX
lại đi đôi với tinh thần vọng ngoại.
Chủ nghĩa yêu nước thời này thắm
đượm màu sắc duy tân. Tinh thần dân tộc
được đi đôi với ư thức cách mạng.
Duy tân và cách mạng là tinh thần của thời đại,
và duy tân và cách mạng cũng là xu thế hiện đại
của tư tưởng và văn hóa dân tộc. Thực
tế đă được phản ánh trong văn chương
giai đoạn này. Đó là một không khí cách mạng
đầy hào hứng.
"Đội tiên
phong đâu tá, gió duy tân từ Đông hải thổi vào
Gương
ngoại quốc kia là, sóng cách mạng bởi Âu châu
dồn tới."
("Văn tế Phan Chu Trinh" - Phan Bội Châu)
Nh́n chung, thơ văn yêu nước
giai đoạn đầu thế kỷ XX nổi bật
nội dung khai sáng dân tộc đúng như nhận định
của ông Trần Thanh Đạm: "Có người
gọi rất đúng rằng văn học đầu
thế kỷ XX có tính chất của một phong trào ánh
sáng như ở Âu châu vào thế kỷ XVIII". (Chuyên
đề "Sự chuyển biến của văn học Việt Nam sang thời kỳ hiện
đại" trang 37).
Có thể khẳng định rằng thời sự
là một đặc điểm của văn chương
yêu nước và cách mạng giai đoạn này. Khi làn
sóng cách mạng trong nước lên cao, thơ văn yêu nước
được sống trong không khí chính trị sôi
nổi, quyết liệt cho nên không ngừng phát triển
về số lượng lẫn chất lượng. Các
sáng tác đó đă dơi theo hoạt động của các
tổ chức yêu nước, cùng với Đông Kinh nghĩa
thục, Đông Du, đến với mọi người qua
những buổi diễn thuyết, b́nh văn hay hiện
diện ngay trong bài học của các học sinh ở
những trường học do các nhóm này tổ chức.
Khi các tổ chức cách mạng lần lượt bị
thất bại, những người tham gia bị cầm
tù. Văn thơ yêu nước theo bước chân của
người tù chính trị đi vào nhà giam. Văn thơ
trong tù có thời điểm đă được phát
triển về số lượng và chất lượng,
nhưng rất tiếc là đến nay số lượng
đó c̣n lại rất ít, chủ yếu là văn
vần. Thơ văn trong tù đă góp phần không nhỏ
cùng với thơ văn yêu nước và cách mạng
ở giai đoạn này làm tái hiện lại lịch
sử chính trị xă hội Việt Nam vào những năm
đầu thế kỷ XX. Đó là lịch sử của
những phong trào chống Pháp theo ngọn cờ cách
mạng dân chủ tư sản, có lúc sôi nổi quyết
liệt nhưng cũng có hồi mất mát hy sinh, mặc
dù đau thương vẫn hào hùng bất khuất.
Bức tranh thời sự đầu thế kỷ XX
được các tác giả chấm phá bằng những
nét sinh động, chân thực thể hiện được
cái đa dạng của cuộc sống, cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc đầy gian khổ đau thương
mà rất hào hùng. Các thi sĩ, văn gia thời này đâu
chỉ nhằm tái hiện lịch sử. Họ c̣n dùng
ng̣i bút để tuyên truyền vận động cứu
nước, để giác ngộ "xă hội đang
c̣n mê mẩn, đánh thức
cả một làng nho c̣n ch́m đắm trong ṿng danh
lợi."
* Văn
học yêu nước và cách mạng là lời tuyên
truyền vận động cứu nước.
Sống trong hoàn cảnh nước mất nhà tan,
dân khổ nhục, nhà nho luôn có ư thức về trách
nhiệm và rất mong muốn t́m ra con đường
cứu nước và làm cho đất nước giàu
mạnh, sánh kịp các nước châu Âu. Nhưng họ
chỉ có trong tay một thứ vũ khí là văn chương,
họ muốn biến nó thành công cụ vạn năng
"vừa là trống vừa là chiêng thức tỉnh người
mê ngủ, vừa là gươm
là súng đánh đổ cường quyền." (Thơ
văn yêu nước và cách mạng đầu thế
kỷ XX -Đặng Thai Mai, trang 20). Trong thời điểm
này các nhà nho nhận thấy văn chương chân
chính có một khả năng to lớn, một chức năng
quan trọng: Tuyên truyền, giác ngộ quần chúng,
tập hợp lực lượng để chống
giặc cứu nước.
Tuyên
truyền những ǵ? Tuyên truyền cho ai? Tuyên truyền như
thế nào? Đây là vấn đề cần bàn đến:
Các nhà chí sĩ ái quốc thời này hướng đến
lực lượng nhà nho là trước hết. V́ nhà nho
là tiêu biểu cho tinh thần, văn hóa của dân
tộc. Bởi nhà nho có nhiều mối thù sâu nặng
với thực dân. Nhưng chủ trương khai dân trí,
đoàn kết dân tộc khiến những người
làm cách mạng lúc bấy giờ cần phải đưa
tư tưởng mới đến đông đảo
quần chúng. Nhưng xét cho cùng th́ tầng lớp trí
thức phong kiến vẫn được xem là đối
tượng chủ yếu. Không riêng ǵ Phan Bội Châu mà
nhiều nhà cách mạng đương thời cũng
đặt niềm tin và trách nhiệm lên đôi vai
của nho sĩ. Điều này phản ánh đặc trưng
của thời đại. Quần chúng nhân dân đă
được chú ư nhưng cái nh́n toàn diện về
họ, vị trí và vai tṛ của họ trong cuộc đấu
tranh này c̣n bị nhiều hạn chế.
Khi
đặt chân lên đất nước Việt Nam,
thực dân Pháp không chỉ nhằm khai thác những
tiềm lực về kinh tế mà c̣n ôm ấp ư đồ
thống trị về mặt tinh thần nhân dân ta. Chúng
muốn biến dân tộc Việt Nam trở thành nô
lệ cho chúng. Sống trong chế độ chính trị
và giáo dục của thực dân, người Việt Nam
sẽ dễ dàng trở thành những kẻ ích kỷ,
đê hèn, tự ti, mất gốc, không biết ǵ đến
Tổ quốc, dân tộc. Nhân dân Việt Nam đang say sưa
trong giấc ngủ của đêm trường nô lệ.
Nhiều người quên dần cái nhục mất nước,
cứ ngỡ rằng việc khai hóa của thực dân là
sự thật, là hảo ư của Pháp đối với
Việt Nam. Nỗi đau mất nước đă lắng
dần theo năm tháng, người ta lại c̣n cảm
thấy dường như sự hiện diện của
Pháp lại có lợi cho người Việt Nam, Pháp mang
đến cho nhân dân Việt Nam bao nhiêu là tiện nghi
vật chất mà họ chưa từng có được.
Người Việt Nam đă thích nghi dần và bằng
ḷng với cuộc sống hiện tại. Phải đánh
thức đồng bào, "gọi hồn" dân tộc
trở về, phải giáo dục tư tưởng
mới cho nhân dân: Yêu nước giành độc lập
và cải cách xă hội. Văn học yêu nước và
cách mạng đă tích cực giác ngộ xă hội, đánh
thức cả dân tộc c̣n mê mẩn. Loại văn thơ
gọi hồn trở thành công cụ trong giai đoạn
này. (Kêu hồn nước - Nguyễn Quyền, Tỉnh
hồn ca - Phan Chu Trinh).
Văn chương c̣n góp phần vào
việc bồi dưỡng t́nh cảm cho con người,
đánh đổ tinh thần tự ti, xây dựng t́nh
cảm mới, nhắc nhở rằng nhục nô lệ
chỉ có thể rửa sạch và được rửa
sạch bằng tinh thần đấu tranh của toàn
thể đồng bào. Phan Bội Châu đă cho rằng
một trong những nguyên nhân dẫn đến t́nh
trạng mất nước là do nhân dân ta xung khắc,
bất ḥa đă ngờ nhau chẳng biết tin nhau, coi nhau như thể quân
thù́ mà "bụng có hợp th́ nhà mới hợp"
c̣n "ḷng đă tan th́ nước cũng tan."
Tiếp nối truyền thống văn học
của các giai đoạn trước, văn học hướng
tới sự phát triển vào con người cố
gắng vươn lên khẳng định những giá
trị chân chính của con người, đặt ra
vấn đề quyền sống con người, trong
đó có người phụ nữ. Đến giai đoạn
này văn học đă phát triển thêm một bước:
Nêu lên yêu cầu đấu tranh giải phóng phụ
nữ và xem nó như một bộ phận của cách
mạng dân tộc. Thanh niên cũng trở thành đối
tượng được quan tâm nhiều. Các nhà nho
đă thấy rơ vai tṛ, khả năng của họ cho
nên rất chú ư giáo dục đối tượng này.
Trong Bài ca chúc Tết thanh niên" Phan Bội Châu đă
vạch kỹ con đường đi tới cho thanh niên,
kêu gọi họ phải tỉnh táo và sáng suốt trong
việc chọn cho ḿnh một lư tưởng sống.
Phải biết: "Đi cho êm,
đứng cho vững, trụ cho gan" để làm nên
việc lớn.
Tác giả của văn chương
yêu nước giai đoạn đầu thế kỷ XX
phần lớn là những nho sĩ cấp tiến. Tầm
nh́n của họ được mở rộng, họ
biết đến nhiều nước trên thế
giới. Họ đă nhận ra ánh sáng của văn minh
hiện đại. Đứng trước sự phát
triển vượt bậc về khoa học kinh tế
của các nước, nh́n lại xă hội Việt Nam
c̣n quá nghèo nàn, lạc hậu, họ vừa kinh ngạc
vừa lo sợ. V́ vậy khi tuyên truyền cứu nước
tác giả này cũng đi từ chỗ ca ngợi nước
người, chỉ ra cái yếu kém của nước
ḿnh để khêu gợi ḷng tự ái, tự trọng
của mọi người. Người Việt Nam phải
biết nhục với t́nh cảnh mất nước,
phải đau đớn, phải căm hờn, phải lo
lắng, hoảng hốt trước nguy cơ diệt
chủng... Nh́n chung, văn chương cổ động
thời này chú trọng nhiều đến việc kích
thích t́nh cảm.
Văn chương tuyên truyền ở giai đoạn
đầu thế kỷ XX cũng nhắc nhở truyền
thống nhưng chú ư đến hiện tại nhiều hơn.
Các tác giả lấy hiện thực trước mắt
để làm cơ sở thuyết phục, vận động
cứu nước. Đó là hiện thực của xă
hội thiếu dân chủ, của nền kinh tế
lạc hậu thấp kém, của một hoàn cảnh chính
trị rối ren, của cuộc sống khổ nhục,
lầm than v́ ách thống trị hà khắc do thực dân
Pháp gây ra. Chính v́ vậy mà tác dụng tuyên truyền
rất cao đă khiến cho kẻ thù thấy đó là
mối đe dọa nghiêm trọng đối với
sự thống trị của chúng. Cho nên chúng đă t́m
mọi cách để ngăn chặn. Ông Đặng Thai Mai
có nhận xét: "Ư chí căm thù của của nhân dân
là kho thuốc nổ, văn chương
đầy nhiệt t́nh của các nhà chiến sĩ là
mồi lửa làm cho kho thuốc nổ ấy bốc
cháy." (Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu
thế kỷ XX, trang 100).
Sau biến cố năm 1908, phong trào cách mạng
bị lắng xuống do sự đàn áp quá dă man của
kẻ thù. Tổ chức cách mạng không c̣n cơ sở
trong nội địa, vậy mà văn thơ tuyên
truyền vẫn tiếp tục ra đời để
triển khai những chủ trương lớn của
hội duy tân ngày trước. Các sáng tác này do những
ngựi yêu nước c̣n lại đang lẫn trốn
hoặc chạy ra nước ngoài t́m cách hoạt động
và sáng tác. Nội dung không có ǵ thay đổi, có khác là ở chỗ khẳng định
dứt khoát cái chính thể mà cuộc cách mạng ái
quốc sẽ thành lập cho nước Việt Nam là
chế độ dân chủ cộng ḥa theo quốc dân
Đảng Trung Quốc; xác nhận quyền làm chủ
của nhân dân. Chính chỗ này đă làm cho tư tưởng
của nó có tác dụng rơ rệt đối với độc
giả hiện đại. Phong trào cách mạng dân tộc
dân chủ tư sản không giành được thắng
lợi hoàn toàn nhưng thơ văn cổ xúy cho phong trào
ấy cũng kèo dài thời gian tồn tại và phát
triển đến khoảng hai mươi năm. Nó đă
đóng góp không nhỏ cho hoạt động chính trị
cứu nước thời bấy giờ.
1.4.
Vấn đề cách tân nghệ thuật trong văn
học yêu nước và cách mạng.
Lực lượng sáng tác văn chương đầu
thế kỷ XX chủ yếu là các nhà nho, nhà khoa
bảng. Đối với họ chữ Hán, chữ Nôm là phương
tiện thông dụng nhất và quen thuộc đến
thành nề nếp. Nhà Nho "cũng chỉ quen với văn, thơ, phú, lục... thứ văn học cao quí
viết bằng thứ ngôn ngữ khó hiểu, rất khó
nói chuyện thực tế, khó đi vào quần chúng
đông đảo." (Văn học yêu
nước và cách mạng - Đặng Thai Mai, trang 122). Trước
yêu cầu mới của xă hội, người sáng
tác phải đưa tác phẩm của ḿnh đến
với phong trào cách mạng, dùng văn chương để
tuyên truyền giáo dục tư tưởng mới cho
quần chúng. T́nh h́nh mới lại có nhiều phức
tạp: giữa lực lượng nhà nho và nhân dân chưa
có sự thống nhất với nhau về h́nh thức
nghệ thuật, ngôn ngữ văn học... vẫn c̣n
tồn tại hai dạng công chúng khác nhau. Làm sao để
tất cả nội dung cần tuyên truyền đều
đến với mọi tầng lớp nhân dân? Đạt
được điều này phải giải quyết
nhiều vấn đề quan trọng và cấp thiết:
Cải cách văn tự, cải cách ngôn ngữ, nghệ
thuật của văn chương, việc vận dụng
chữ quốc ngữ trong sáng tác văn chương giúp
cho quần chúng dễ dàng đến với các tác
phẩm văn chương nghệ thuật lúc
bấy giờ. Để đạt được
hiệu quả tuyên truyền, các tác giả thời này
vận dụng đủ mọi thể loại sáng tác.
Các thể loại truyền thống như: Thơ (lục
bát, song thất lục bát) ca trù, hát dặm... lẫn các
h́nh thức mới phù hợp với mục đích tuyên
truyền, cổ động (tiểu thuyết, h́nh
thức diễn ca). Phan Bội Châu được mệnh
danh là một người "có lẽ từ xưa đến
nay trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào
đă chịu khó và có gan đem ng̣i bút ra thử thách
trên nhiều loại văn khác nhau như Sào Nam"
(Đặng Thai Mai). Người sáng tác thời này đă
chú ư đến yếu tố hiện thực trong tác
phẩm. Họ thường đi thẳng vào các vấn
đề chính trị xă hội trước mắt để
đưa ra lập luận nhằm mục đích giáo
dục hay tuyên truyền vận động.
Văn xuôi Nôm đến đầu
thế kỷ XX vẫn c̣n rất ấu trĩ, lủng
củng, nghèo nàn, mà nhà nho cũng quen dùng chữ Hán hơn
chữ Nôm. V́ vậy việc cải cách văn xuôi trước
hết tiến hành trong văn chữ Hán. Các nhà nho
tiến bộ đă bỏ bớt âm hưởng biền
ngẫu, cố gắng đưa tri thức mới,
thuật ngữ mới vào trong sáng tác. Họ học cách
viết của báo chí Trung Quốc lúc đó là tŕnh bày ư
kiến rơ ràng, mạch lạc, chặt chẽ. Các nhà nho
thời nay chịu ảnh hưởng của văn tân thư
Trung Quốc đặc biệt là họ thường
lấy văn của Lương Khải Siêu làm mẫu
mực.
Do yêu cầu sáng tác để tuyên truyền nên các
tác phẩm thời này thường chú ư đến
việc nói cho dân nghe, viết cho dân hiểu. V́ vậy
họ phải viết bằng tiếng nói, âm điệu
mà nhân dân quen thuộc, ưa thích. Muốn cổ động
có tác dụng họ phải chú ư tŕnh bày rành mạch,
khúc chiết, phải mô tả thực tế, phải khêu
gợi, phải lâm li, giàu t́nh cảm, phải có sức
kích động. Bởi thế văn chương thời
này cũng trút bỏ hết giọng uỷ miñ, yếu
đuối, trở nên hùng tráng, đanh thép để
cảm động, lôi cuốn.
"Dây! Dậy!
Bên án tiếng gà
vừa gáy...
Đi cho êm! Đứng
cho vững! Trụ cho gan!..."
(Bài ca Chúc Tết
thanh niên).
Văn vần vẫn là h́nh thức
được ưa chuộng nhất trong thời này.
Đầu thế kỷ XX phổ biến h́nh thức
diễn ca. Có những văn bản chính luận đă
được diễn ca nhằm mục đích đưa
tư tưởng mới đến với quần chúng
được dễ dàng. Đó là trường hợp
của "Hải ngoại huyết thư" của Phan
Bội Châu. Diễn ca được các nhà yêu nước
dùng để thể hiện những nội dung tuyên
truyền cứu nước rất phù hợp với điều
kiện xă hội lúc bấy giờ. Người ta có
thể đọc cho nhau nghe, nhớ lâu, dễ thuộc
không cần phải in thành sách vở...
Để đạt được
hiệu quả trong tuyên truyền, các tác giả văn thơ
yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX
đă cách tân nghệ thuật sáng tác, tạo nên
những đổi mới so với trước kia. Tuy
nhiên văn phong của họ tỏ ra rất bề
bộn, chữ Hán, chữ quốc ngữ pha tạp, các
thể loại truyền thống và hiện đại
đan xen. Tuy hô hào sử dụng chữ quốc ngữ nhưng
đại đa số các nhà nho lại thích dùng chữ
Nôm để sáng tác. Họ chưa bỏ được
lối viết văn biền ngẫu, nhiều bài thơ
thời này c̣n bị pha trộn một vài câu hoặc
một đoạn thơ chữ Hán cầu kỳ khó
hiểu ("Bài hát khuyên nhà nho", Hú hồn thanh niên).
Nhiều từ ngữ xa lạ, tên đất, tên người
thật đặc biệt được mang vào trong tác
phẩm một cách tuỳ tiện, làm cho bài văn, bài thơ
trở nên nặng nề tạo cảm giác khó chịu
đối với người đọc (T́nh phu phụ -
Khuyết danh). Có thể khẳng định đây là
một đặc điểm chỉ t́m thấy ở văn
học giai đoạn này.
TOP |
2.1.
Lực lượng sáng tác:
Lực lượng sáng tác tiêu biểu của ḍng văn
học hợp pháp là nhà nho và các bậc trí thức tân
học. Dù là nhà nho hay trí thức tân học phần
lớn họ là những người chú trọng đến
văn hoá hơn chính trị. Việc đọc sách
của họ là để hướng đến mục
đích mở mang tầm nh́n cho người sáng tác,
nhằm phát triển văn hoá nước nhà. Họ không
chỉ đọc tân thư, tân văn mà c̣n đọc
cả những sáng tác văn học phương Tây. Khách
quan mà đánh giá th́ họ là những người
mạnh dạn đến với cái mới, tuy ở
họ không tránh khỏi những dằn vặt, trăn
trở khi chọn cho ḿnh một hướng đi để
phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Nh́n chung, họ đă tỏ ra là người nhanh chóng
vứt bỏ cái cũ phong kiến lạc hậu. Họ
đến với cái mới không v́ muốn thỏa
hiệp với Pháp mà v́ sự phát triển của
nền văn hoá dân tộc, v́ ước nguyện
muốn dung ḥa hai nền văn hoá Âu - Á.
2.2.
Điều kiện ra đời và phát triển của văn
học hợp pháp:
Văn học công khai hợp pháp là một bộ
phận văn học quan trọng của nền văn
học dân tộc trong giai đoạn này. Văn học
công khai hợp pháp phát triển trong lúc văn học yêu
nước đang bị trấn áp mạnh. Văn học
hợp pháp ở buổi đầu đă được
phát động từ hai phía đối lập nhau,
nhằm hai mục đích trái ngược nhau nhưng
lại đạt cùng một kết quả: Phía Pháp
muốn có một công cụ để tuyên truyền cho
chúng, để phục vụ cho việc khai hoá, do đó
mở báo chí xây dựng nhà in, thành lập một số
trường dạy quốc ngữ và chữ Pháp, cho
dịch các tác phẩm văn học Pháp; phía Việt Nam,
người yêu nước muốn thực sự khai hoá
cho dân để t́m cách giải phóng dân tộc khỏi
ách nô lệ, cho nên cổ động học chữ
quốc ngữ, giới thiệu tân thư, dạy và
khuyên học khoa học kinh tế hiện đại....
Lúc đầu việc làm của hai bên tuy ư đồ
đối lập nhau nhưng công việc được
tiến hành có những điểm gần nhau. Khi mục
đích chính trị của các nhà yêu nước lộ
rơ th́ Pháp đă t́m cách đối phó. Một đợt
càn quét dă man được thực hiện đối
với các nhà yêu nước. Các sĩ phu yêu nước
rơi vào t́nh trạng tan tác, nhưng sức sống
của dân tộc ta đă tiếp nhận những thành
quả ban đầu và đẩy măi nó lên. Nhất là
trong lĩnh vực văn học, chúng ta đă tiến
những bước lớn. Văn học hợp pháp đă
được phát triển trong những điều
kiện thuận lợi lớn:
- Chữ quốc
ngữ, báo chí, dịch thuật:
+ Vấn đề chữ quốc
ngữ:
Chữ quốc ngữ đă có
mặt ở Việt Nam từ các thế kỷ trước,
nhưng đến đầu thế kỷ XX nó mới
được đưa vào trong sáng tác văn học
một cách phổ biến. Chữ quốc ngữ là
một hệ thống ngôn ngữ - văn tự lư tưởng
của văn học mới, v́ nó mô tả cuộc
sống b́nh thường, nó có thể đến với
bất cứ loại độc giả nào từ tầng
lớp quí tộc đến b́nh dân.
Đi đôi với vấn đề sử dụng
chữ quốc ngữ trong sáng tác là việc xây dựng văn
xuôi quốc ngữ. Trong quá tŕnh h́nh thành và phát triển
của nền văn học mới, các tác giả không
tránh khỏi việc ghi chép khẩu ngữ. Mặt khác, do
ảnh hưởng của cách viết văn cũ (văn
biền ngẫu), văn xuôi quốc ngữ
trong giai đoạn này thường đối nhau.
Ngoài ra c̣n có những trường hợp chịu ảnh
hưởng của lối văn dịch, câu văn xuôi
trở nên dài ḍng, nửa Tây nửa Tàu như văn xuôi
của Phạm Quỳnh.
Trải qua những thí nghiệm, t́m ṭi, người
Việt Nam đă làm cho kho từ vựng tiếng Việt
ngày thêm phong phú bằng cách sáng tạo thêm từ
mới, tiếp nhận thêm từ mới của Trung
Quốc, Nhật Bản đọc theo âm Hán Việt,
Việt hóa một số từ Pháp, làm cho ngữ pháp
tiếng Việt ngày càng mạch lạc, sáng sủa hơn
nhờ nắm vững qui luật của ngôn ngữ dân
tộc, đẩy lùi câu
văn biền ngẫu, đồng hoá vào hệ thống
ngữ pháp tiếng Việt một số yếu tố
của ngữ pháp tiếng Pháp. Sau bao nhiêu cố gắng
của các nhà báo, nhà văn, câu văn nghệ thuật
nhằm mô tả chân thật cuộc sống b́nh thường
được h́nh thành như chúng ta đă thấy trong
tác phẩm của Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách,
Hồ Biểu Chánh.
+
Báo chí:
Báo chí đă đóng vai tṛ rất quan trọng trong
việc phát triển ḍng văn học hợp pháp ở
giai đoạn này. Báo chí chính là nơi để các nhà
văn công bố tác phẩm của ḿnh, cũng là nơi
để các nhà văn thử nghiệm, rèn luyện văn
xuôi quốc ngữ. Báo
chí là nơi sưu tầm và giới thiệu văn
học trung đại Việt Nam, giới thiệu văn
học Pháp và văn học Trung Quốc. Báo chí có tác
dụng khích lệ, mơ ước về sự
nghiệp văn học, kích thích những người
cầm bút phỏng tác, sáng tác. Báo chí c̣n là nơi trao
đổi ư kiến, t́m ṭi cách làm giàu ngôn ngữ, và cũng
là nơi để các nhà văn rèn luyện cách mô
tả cuộc sống bằng các thể loại và h́nh
thức mới để h́nh thành nhà văn và tập
hợp thành đội ngũ nhà văn.
Báo chí ở giai đoạn này đă
đi từ chỗ là một công cụ tuyên truyền
của Pháp dần dần ngày càng gắn chặt hơn
với văn học, thúc đẩy văn học phát
triển.
+ Dịch thuật:
Phong trào dịch thuật bắt đầu ở Nam
bộ và nhanh chóng phát triển trong phạm vi cả nước.
Công việc dịch thuật được thúc đẩy
bởi nhiều động cơ và các tác phẩm
dịch đă có sức hút lớn đối với độc
giả thành thị lúc đó. Việc dịch thuật
đă buộc các nhà văn vay mượn, sáng tạo làm
cho tiếng ta thêm phong phú, rèn luyện văn xuôi nhanh
chóng trưởng thành. Việc dịch thuật cũng
giúp cho các nhà văn tiếp nhận nghệ thuật sáng
tác mới, cụ thể là loại h́nh mới, từ
đó các tác giả bắt đầu viết bút kư,
truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch....
- Cuộc sống ở thành thị
và công chúng thành thị:
Những năm đầu thế kỷ XX, cuộc
sống ở thành thị Việt Nam đă thay đổi
nhiều. Tầng lớp tiểu tư sản ngày càng
đông đảo, nhịp độ và tốc độ
cuộc sống gấp và nhanh, một lối sống tư
sản hóa được lan tràn khắp các ngơ ngách
của phố phường. Các tầng lớp khác nhau
trong xă hội tuy có mức sống, cách sống khác nhau,
thậm chí c̣n đối lập nhau nhưng vẫn
gần nhau về những nét tâm lư, thị hiếu: thích
đua đ̣i, ăn chơi hưởng lạc, muốn
sống và giải trí trong môi trường náo nhiệt,
khao khát cái lạ, cái luôn luôn thay đổi. Chính
cuộc sống mới đưa đến cho con người
thế giới quan và nhân sinh quan mới và cũng v́
thế đặt ra cho văn học những yêu cầu
khác trước.
Con người Việt Nam lúc bấy
giờ đang sống giữa cuộc sống đua chen
cạnh tranh, cần sống thực, không thể thỏa
măn với những lời giáo huấn về đạo
lư cương thường. Người ta cần hiểu
rơ, hiểu kỹ cuộc sống với tất cả
những t́nh tiết đầy đủ, những chi
tiết cụ thể, gây được cảm giác,
thỏa măn được sự ṭ ṃ. Người ta
cần sống những cảnh ngộ của kịch,
những số phận của tiểu thuyết, những
cảnh ngộ, số phận của con người
cụ thể trong cuộc sống b́nh thường. Ngựi
ta muốn nếm trải cái có thật chứ không
phải được khích lệ bằng những gương
trung hiếu minh họa đạo nghĩa. Ngựi ta cũng
muốn rút ra từ đó những bài học quí giá
về cuộc sống chứ không phải là bài học
đạo lư. Người ta muốn xúc cảm, muốn
mở mang như những người cá nhân, chứ không
phải xúc động như khi chiêm ngưỡng
những tấm gương cao của vị thánh xuất
chúng.
Thế là vào khoảng trước
và sau đại chiến thế giới lần thứ
nhất, một lối sống thành thị tư sản
hóa và một công chúng thành thị đă h́nh thành. Đó
không chỉ là đối tượng mô tả, phục
vụ mà c̣n là nhân tố làm nảy sinh nền văn
học mới.
- Vấn đề đổi mới
về quan niệm sáng tác:
Sự thay đổi về quan niệm sáng tác đă
dẫn đến nhiều đổi mới trong nền văn
học giai đoạn này. Nó không chỉ là một đặc
điểm của giai đoạn văn học mang tính
chất giao thời như đă tŕnh bày ở phần
trên, mà nó c̣n là một trong những nhân tố thúc đẩy
sự ra đời của văn học mới, đẩy
mạnh sự phát triển của cả bộ phận văn
học hợp pháp.
Bấy giờ v́ muốn đáp ứng nhu cầu
thị hiếu và thẩm mỹ của công chúng thành
thị nhà văn sáng tạo tác phẩm như một
kế sinh nhai. Độc giả trước đây đi t́m
văn phẩm, bây giờ tác phẩm phải chạy theo
người tiêu thụ. Nhà văn thành một nghề, văn
học trở thành hàng hoá. Người sáng tác đă xa
dần quan niệm "trước thư lập ngôn"
sáng tác để thể hiện "tâm, chí, đạo"
dùng tác phẩm văn chương để di dưỡng
tinh thần và giáo dục con cháu.
Trước kia nhà nho không chú ư đến
vấn đề phản ánh chân thực, cụ thể
cuộc sống đời thường. Các tác giả
của bộ phận văn học mới để
hết tâm lực vào mô tả sao cho "chân t́nh, chân
cảnh" con người và cuộc sống xă hội,
chủ yếu là con người b́nh thường và
cuộc sống b́nh thường. Đối tượng
được tập trung miêu tả trong tác phẩm
bấy giờ là cuộc sống thực, cuộc sống
đời thường và những con người cũng
có thực trong cuộc sống.
Sự thay đổi quan niệm văn
học và sự h́nh thành phương pháp sáng tác mới
là cả một quá tŕnh lâu dài giằng co, tranh chấp
giữa cái cũ và cái mới. Hiện tượng này
t́m thấy trong toàn bộ đời sống một
nền văn học mới.
- Chính sách văn hóa nô dịch
của thực dân:
Thực dân Pháp đă thực
hiện chính sách văn hoá nô dịch ở Việt Nam,
nhằm làm cho nhân dân Việt Nam đoạn tuyệt
với những truyền thống tốt đẹp đồng
thời phục hồi những mặt lạc hậu
phản động trong văn hoá xưa. Tuy nhiên, sự
mở mang tương đối của thực dân đă
đem lại nhà máy giấy, nhà máy in, một số trường
học mới dạy chữ quốc ngữ, báo chí...
Đấy là những điều kiện thuận lợi cho
sự phát triển của văn học hợp pháp.
Thế nhưng chính sách văn hoá nô dịch của
thực dân cũng tạo nên nhiều lực cản đối
với phát triển của văn học hợp pháp, làm
hạn chế nội dung tư tưởng của bộ
phận văn học này. V́ lưỡi kéo kiểm
duyệt quá ngặt nghèo của thực dân, các tác
giả khi phản ánh hiện thực cuộc sống xă
hội phải bỏ qua hiện thực của cuộc
đấu tranh yêu nước và cách mạng của nhân
dân. Bị lôi cuốn vào quỹ đạo của chính
sách văn học thực dân, nhiều nhà văn đă
mang ảo tưởng dùng hoạt động nghệ
thuật để bảo tồn nền văn hoá dân
tộc, đó là một giải pháp cứu nước
lúc bấy giờ.
2.
3. Một số nội dung tiêu biểu của văn
học hợp pháp:
* Văn
học hợp pháp phản ánh hiện thực xă hội
trên con đường tư sản hóa
Vào đầu thế kỷ XX có
nhiều vấn đề mới đặt ra cho người
cầm bút. Hiện thực cuộc sống ngày càng đa
dạng, phức tạp với biết bao vấn đề
mới lạ đập vào mắt nhà văn. Họ có
thể nào làm ngơ trước nó. Cần phải mô
tả chân thật, sinh động cuộc sống xă
hội, đó là điều làm cho nhà văn luôn trăn
trở và hướng đến.
Với ư thức không "tô điểm sai cảnh
thực" ư thức mô tả "chân t́nh, chân cảnh", "khiến người ta nghe câu văn
như trông thấy cảnh, tai nghe thấy người mà
sinh ra cái ḷng quan cảm" giúp các nhà văn viết
về xă hội tư sản hoá với những con người,
t́nh huống, cảnh ngộ, sự việc cụ thể.
Xă hội được miêu tả trong văn
học hợp pháp là một xă hội náo nhiệt, xô
bồ mà đồng tiền tư sản, lối sống
tư sản, đạo đức tư sản đang
dần dần chiếm địa vị ưu thắng
ở thành thị. Trong khi đó ở nông thôn bọn cựng
hào, quan lại, địa chủ cấu kết nhau hà
hiếp dân lành. Cuộc sống của người dân
nghèo vốn đă lam lũ, khốn khó lại phải
chịu đựng thêm bao nhiêu tai hoạ do chúng gây ra.
Xă hội tư sản trong sáng tác của nhà văn
lúc đó như một xă hội mục nát, không hề
có những con người ưu tú. Ở vào giai đoạn
này, ư thức hệ tư sản đang lấn dần
vị trí của ư thức hệ phong kiến, nhưng nó
vẫn chưa giành được phần thắng về
ḿnh. V́ vậy khi giải quyết các vấn đề
của xă hội, nhà văn thường rơi vào
hiện tượng lưỡng phân. Họ chưa thể
khẳng định xă hội tư sản, cũng không
thể khẳng định một lư tưởng xă
hội khác. Nhà văn chỉ mới nh́n thấy sự
đau khổ, đổ vỡ, sự không hài ḥa của
con người và xă hội. Mang tâm trạng của người
trí thức tiểu tư sản bấp bênh, hoang mang,
dễ dao động, lại bị lép vế trong xă
hội thời đó, nhà văn chỉ dừng lại
ở mức độ xót thương, cảm động
và đau khổ.
Hiện thực được mô tả trong văn
học hợp pháp có tính chất chân thực, cụ
thể đa dạng nhưng chưa phải là những
vấn đề mấu chốt của xă hội hiện
thời. Chưa có ai đi sâu và lưỡi kéo kiểm
duyệt của thực dân cũng không cho phép đi sâu
vào đời sống cùng khổ của nhân dân lao động
để moi ra những mâu thuẫn sâu sắc giữa
địa chủ phong kiến tư bản đế
quốc với người dân cùng khổ trong xă hội.
Giá trị tố cáo, phê phán của văn học hợp
pháp c̣n nhiều hạn chế. Văn học hợp pháp
không hề đặt vấn đề đấu tranh
chống lại giai cấp phong kiến thống trị hay
bọn tư bản đế quốc. Các tác giả
chỉ muốn cải tạo chúng về mặt đạo
đức.
Nh́n chung, văn học hợp pháp phản ánh
hiện thực trên lập trường đạo đức
là chính. Đây là yếu tố làm nên hạn chế trong
nội dung hiện thực của bộ phận văn
học này, v́ nó đă giới hạn con mắt quan sát
của tác giả không cho tác giả trực tiếp và
toàn tâm toàn ư nh́n vào hiện thực, phân tích và lư
giải hiện thực.
* Cái tôi và chủ nghĩa cá nhân
trong văn học hợp pháp:
Xă hội Việt Nam vào những năm đầu
thế kỷ XX đang trên con đường tư
sản hóa, con người không thể tiếp tục nép
ḿnh vào cái ta chung, xă hội tư sản không dành chỗ
cho những con người chỉ sống theo trật
tự trên dưới, theo quan hệ họ tộc, làng
xă. Cái tôi của chủ nghĩa cá nhân rất phù hợp
với xă hội hiện thời. Nhà văn, nhà thơ
cần phải đưa nó vào trong tác phẩm.
Sự tiếp nhận nền văn
hoá phương Tây ở các tác giả thời này có
nhiều mức độ khác nhau. Riêng đối với
các tác giả tân học hoặc chịu ảnh hưởng
của nền học vấn mới
như Hoàng Ngọc Phách, Hồ Biểu Chánh, Tản
Đà, Đông Hồ, Tương Phố... hay cả Tân Dân
Tử, Trần Thiên Trung... th́ cùng một lúc họ
phải chịu ảnh hưởng của văn hóa phương
Đông lẫn phương Tây. Điều này đặt ra cho
họ một sự lựa chọn hết sức gay go. Đi
theo chủ nghĩa cá nhân của ư thức tư sản
hay giữ ǵn đạo đức phong kiến. Chủ nghĩa
cá nhân mở ra cho con người một chân trời
tự do: tự do trong quan hệ t́nh cảm, nhất là
t́nh yêu đôi lứa, chủ nghĩa cá nhân giải phóng
con người khỏi những ràng buộc của lễ
giáo phong kiến khắt khe. Nhưng nó mới quá! Làm sao
tránh được những bỡ ngỡ, người ta
không thể không đến với nó trong sự dè
dặt, ngại ngùng. Trong khi đó, đạo đức
phong kiến lại vốn là khuôn vàng thước
ngọc, quyết định mọi giá trị đạo
đức trong xă hội hàng ngh́n năm qua, chưa
thể dứt bỏ trong chốc lát. Người sáng tác
bị đặt vào t́nh thế lưỡng phân. Đối
với họ cả hai phía đều có sức hấp
dẫn và thu hút lạ kỳ, ngay cả trong thị
hiếu của công chúng cũng thế.
Thơ văn hợp pháp giai đoạn
đầu thế kỷ XX đă bắt đầu nói
đến những t́nh cảm riêng tư, sâu kín của
con người. Những bài thơ nặng sầu mộng
lần lượt ra đời. Người ta bắt
đầu nói đến cái khổ của yêu
đương, xa cách, nhớ nhung. Nhà văn, nhà thơ
đă cất lên tiếng than năo ruột cho những
mối t́nh tan vỡ. Chủ nghĩa cá nhân đă xuất
hiện nhưng mang một đặc điểm riêng
biệt, nó khác với chủ nghĩa cá nhân trong văn
học ở giai đoạn 30-40 và cũng không giống
với chủ nghĩa cá nhân trong văn học giai đoạn
40-45. Nh́n chung, ở vào thời điểm này, cái tôi và
chủ nghĩa cá nhân tuy đă xuất hiện nhưng nó
chưa đủ sức để chống đối
những ràng buộc của lễ giáo phong kiến. Các
tác giả c̣n chịu ảnh hưởng của nhân sinh
quan phong kiến, cho nên cái tôi c̣n nhiều màu sắc phong
kiến. Chủ nghĩa cá nhân c̣n rất yếu ớt
bởi các tác giả c̣n đứng về phía đạo
đức phong kiến can ngăn con người khỏi
phải rơi vào hố cá nhân chủ nghĩa.
* Nội dung yêu nước và vấn
đề cứu nước của văn học hợp
pháp:
Các tác giả của văn thơ hợp pháp
phần lớn là những người đứng ngoài
cuộc đấu tranh cứu nước của dân
tộc. Họ không được sưởi ấm
bởi ngọn lửa của các phong trào cách mạng lúc
bấy giờ. Tuy nhiên, ở họ vẫn tiềm tàng
một tinh thần dân tộc cao cả. Họ sáng tác
không để tuyên truyền, vận động cứu nước
như các tác giả của ḍng văn học cách
mạng, nhưng trong tác phẩm của họ vẫn
phảng phất một tinh thần yêu nước. Chính
từ những trang viết chất chứa t́nh cảm
đau xót, căm hờn hay tiếc nuối về đất
nước đă cho ta thấy được t́nh yêu quê
hương đất nước ở họ. Nói chung,
nội dung yêu nước trong văn học hợp pháp
được thể hiện một cách mờ nhạt,
bóng gió xa xôi. Vấn đề cứu nước cũng
được đặt ra nhưng nó không mang tính
thiết thực, thậm chí thể hiện tính chất
cải lương.
2.
4. Đặc điểm nghệ thuật của văn
học hợp pháp:
Văn học hợp pháp vừa kế thừa
nghệ thuật sáng tác của các nhà nho thời trung
đại, vừa tiếp nhận nghệ thuật
hiện đại của nền văn học phương
Tây. Các tác giả đă tiến hành một cuộc cách
tân trong nghệ thuật, lấy truyền thống làm cơ
sở và nền văn học hiện đại phương
Tây như một chất xúc tác thúc đẩy quá tŕnh
cách tân đó. Trong lịch sử văn học Việt
Nam, đây là giai đoạn duy nhất có hiện tượng
đan xen giữa hai h́nh thức nghệ thuật: nghệ
thuật của văn học trung đại và nghệ
thuật của văn học hiện đại. Chính
sự lắp ghép và pha tạp các yếu tố cũ và
mới đă làm cho nhiều tác phẩm ra đời trong
giai đoạn này mang tính chất trung gian, vừa thể
hiện chất hiện đại nhưng vẫn mang dáng
dấp truyền thống.
Nh́n chung, văn học hợp pháp giai đoạn này
có xu hướng tiến gần đến văn học
hiện đại. Đối với các tác gia,í văn
học hiện đại là một khu vườn
quyến rũ đầy những hoa thơm cỏ lạ.
Phát hiện nó là một chuyện nhưng đến
với nó là một chuyện khác. Bởi v́ họ
"không có đủ độ sâu và độ đúng
của lư luận, không đủ
học vấn để kế thừa truyền thống
và tiếp thu ảnh hưởng của văn học nước
ngoài một cách hợp lư và sáng tạo" (Văn
học Việt Nam giai đoạn giao thời - Trần Đ́nh Hượu và Lê Chí Dũng,
trang 337). Đối với người sáng tác, cảm
xúc thẩm mỹ có thay đổi, thế giới quan và
nhân sinh quan đă khác trước, nhưng họ chưa
được trang bị chu đáo về mặt lư
luận. Họ đă đến với văn học
hiện đại trong sự nhận thức chưa
trọn vẹn về mọi phương diện, trong
đó có cả phương diện nghệ thuật.
2. 5. Các loại h́nh:
2.5.1. Truyện ngắn và tiểu thuyết:
Truyện ngắn và tiểu thuyết là hai thể
loaüi đă có ở nền văn học trung đại nhưng
không được gọi tên như thế. Vào những
năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
ở Việt Nam, trước tiên là Nam bộ đă
xuất hiện những tác phẩm truyện ngắn và
tiểu thuyết viết bằng văn xuôi quốc
ngữ, dựa theo nghệ thuật truyện ngắn và
tiểu thuyết của văn học phương Tây. Quá
tŕnh chuyển từ truyện Nôm sang tiểu thuyết
hiện đại hay
từ tiểu thuyết Hán văn sang quốc ngữ
diễn ra khá phức tạp. Đến giai đoạn này,
một số tác giả như
Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh vẫn c̣n sáng tác tiểu
thuyết bằng chữ Hán, viết theo lối kết
cấu chương hồi như "Giai nhân kỳ
ngộ, Trùng quan tâm sử.". Những nhà văn
thuộc lực lượng trí thức tân học đă
đi từ con đường dịch thuật qua
phỏng tác rồi đến sáng tác để tạo
nên những tác phẩm truyện ngắn và tiểu
thuyết hiện đại. Với tư liệu có
được đến hôm nay, chúng ta có thể xem
truyện "Thầy Lazarô Phiền" của Nguyễn
Trọng Quản là truyện ngắn hiện đại
đầu tiên ra đời năm 1887 ở Nam bộ. Sau
đại chiến thế giới lần thứ nhất,
ở miền Bắc mới xuất hiện những
truyện ngắn đầu tiên của Nguyễn Bá
Học, Phạm Duy Tốn. Không bao lâu, phong trào sáng tác
truyện ngắn đă trở nên phổ biến trong
cả nước. Báo chí là nơi cung cấp món ăn
tinh thần hấp dẫn đó cho công chúng đương
thời. Phong trào sáng tác tiểu thuyết cũng bắt
đầu ở Nam bộ. Trần Thiên Trung, Tân Dân
Tử, Hồ Biểu Chánh... được xem là những
người đă xây nền tạo móng cho nền
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Đến năm
1925, ở miền Bắc "Tố Tâm" của Hoàng
Ngọc Phách ra đời đă tạo nên một
tiếng vang lớn trong độc giả và đánh
dấu bước phát triển của tiểu thuyết
Việt Nam hiện đại ở buổi đầu h́nh
thành. Bên cạnh đó "Quả dưa đỏ"
của Nguyễn Trọng Thuật, "Kim Anh lệ
sử" của Trọng Khiêm cũng góp phần tạo
nên luồng gió mới thổi vào văn đàn hợp
pháp Việt Nam ở 30 năm đầu thế kỷ XX.
Nội dung của truyện ngắn
và tiểu thuyết giai đoạn này tập trung vào
phản ánh hiện thực xă hội đương
thời, đả phá những cảnh suy đồi trong
xă hội thực dân nửa phong kiến, bênh vực cho
đạo đức gia đ́nh xă hội, hoặc nêu lên
một vài khía cạnh của sự
xung đột giữa lễ giáo phong kiến và
chủ nghĩa cá nhân tư sản, phơi bày cảnh
khốn khổ của nhân dân dưới ách thống
trị, bóc lột của bọn địa chủ, quan
lại thực dân.
Về nghệ thuật, một đặc trưng
tiêu biểu của truyện ngắn và tiểu thuyết
trong giai đoạn đầu thế kỷ XX là sự
kết hợp đan xen giữa hai loại nghệ
thuật cũ và mới. Lực lượng sáng tác có
những người xuất thân Nho học, có người
xuất thân Tây học. Hai nguồn gốc kiến thức
ấy có ảnh hưởng lớn đến tài nghệ
của mỗi người và đưa đến kết
quả là nghệ thuật của bên Tây học tiến
bộ hơn bên Nho học. Nhưng nh́n chung, sáng tác
của cả hai loaüi tác giả ấy đều mang
một đặc điểm chung là "lắp ghép
một cách máy móc cái truyền
thống và hiện đại.". Hạn chế đó
mang tính tất yếu của một giai đoạn
chuyển biến trong lịch sử văn học,
từ phạm trù văn học trung đại sang phạm
trù văn học hiện đại. Chính v́ sự lắp
ghép nên đă xuất hiện nhiều trường
hợp lối kết thúc có hậu, diễn biến theo
thời gian được xây dựng xen lẫn với
h́nh thức kể chuyện tạo ra những điểm
thắt nút, diễn biến theo tâm lư nhân vật, câu văn
biền ngẫu, đối ư, đối thanh, lên bổng
xuống trầm ra đời bên cạnh câu văn xuôi
hiện đại, v.v... Nh́n chung, ở hầu khắp các
phương diện của nghệ thuật, từ yếu
tố ngôn ngữ đến nghệ thuật xây dựng
nhân vật, cách hành văn, lẫn kết cấu tác
phẩm đều có sự đan xen, pha tạp như
đă nói trên. Mặt khác, truyện
ngắn và tiểu thuyết bấy giờ đă chú ư
đến vấn đề miêu tả thiên nhiên nhưng
vẫn c̣n mang h́nh thức sáo cổ, và đặc
biệt là khuynh hướng thuyết minh đạo đức
th́ ở tác giả nào cũng có. Có khi nhà văn tự
ư chen vào tác phẩm để "diễn thuyết"
một bài đạo đức dài lê thê. Những tác
giả tiêu biểu của thể loại truyện
ngắn và tiểu thuyết ở giai đoạn này
gồm có:
Nguyễn Bá Học: Ông là một
trong những nhà văn nổi tiếng đầu tiên
ở Việt Nam
viết truyện ngắn phản ánh xă hội thành
thị đang trên đường tư sản hóa. Ông có
7 truyện ngắn, sáng tác trong 3 năm: "Câu chuyện
gia đ́nh,
chuyện ông Lư Chắm, Có gan làm giàu, Câu chuyện nhà sư,
Dư sinh lịch hiểm kư, Chuyện cô Chiêu Nh́, Câu
chuyện một tối của người tân hôn."
Ông đă đi vào phản ánh hiện thực xă hội
thực dân nửa phong kiến, một xă hội náo
động, xô bồ đầy những cạm bẫy
chết người. Đó là cuộc sống ở thành
thị. C̣n ở nông thôn th́ ngày càng tàn tạ, vắng
lặng, ngưng đọng với sự sụp đổ
của Nho học, với những người nông dân,
đặc biệt là phụ nữ sống an phận
thủ thường theo nề nếp cũ. Cũng như
nhiều tác giả khác cùng thời, ông có ước
muốn "điều ḥa tân cựu" "thổ
nạp Á-Âu" . Nhưng thực tế ông đă không
thể hướng lư tưởng xă hội-thẩm
mỹ của ḿnh vào việc khẳng định xă
hội tư sản. Ông đă h́nh dung một xă hội
lư tưởng phải là xă hội tư sản với
đạo đức cũ. Nhưng ông lại đang công
kích và chê bai xă hội bao quanh ông. Qua tác phẩm chúng ta
thấy cái nh́n thực tế, cụ thể của ông
đă chiếm ưu thế so với sự h́nh dung
của ông về một xă hội tư sản lư tưởng.
Về nghệ thuật, Nguyễn Bá
Học, vừa duy tŕ nghệ thuật sáng tác cũ,
vừa học tập ở văn học phương Tây
về nhiều phương diện. Ông đă cố
gắng mô tả khách quan hiện thực cuộc sống
nhưng cũng đồng thời sử dụng văn
biền ngẫu và h́nh ảnh ước lệ, tượng
trưng của văn học truyền thống.
Phạm Duy Tốn: Ông đă viết những
truyện ngắn: Nước đời lắm nỗi, Con
người Sở Khanh, Bực ḿnh, Sống chết
mặc bây. Ông đă tập trung phơi bày thực
trạng thối nát, bất công của xă hội thực
dân nửa phong kiến. Ông chịu ảnh hưởng
của văn Pháp nhiều nên cách viết có phần
mới hơn Nguyễn Bá Học. Ông thành công ở
nghệ thuật mô tả chân thực những hiện tượng
mà ông quan sát. Truyện ngắn "Sống chết
mặc bây" được xem là tác phẩm nổi
tiếng của ông.
Nguyễn Trọng Thuật: Ông có
quyển tiểu thuyết "Quả dưa đỏ"
được giải thưởng
của Hội Khai trí Tiến Đức năm 1925.
"Quả dưa đỏ chịu ảnh hưởng
của cuốn Robinson Crusoe của Đaniel Dejoe nhưng không
phải là phiêu lưu tiểu thuyết như tác giả
gán cho tác phẩm của ḿnh. Tác giả có dụng ư
phản ánh ư hướng thích phiêu lưu, mạo hiểm
trong tâm lư của công chúng thời đó. Ông không thành
công trong thể loại tiểu thuyết lịch sử,
khi ông mô tả cụ thể lịch sử thời quá
khứ. "Quả dưa đỏ" chỉ là tiểu
thuyết chương hồi mà nhân vật chính của nó
- An Tiêm - rất gần với nhà nho. Giọng văn c̣n
mang nhiều ảnh hưởng của Hán văn.
Trọng Khiêm: Tác giả của
quyển tiểu thuyết dài: "Kim Anh lệ sử."
Tác
phẩm đề cập đến cuộc đời lưu
lạc, đau khổ ê chề của một người
phụ nữ con nhà nề nếp v́ gia đ́nh sa sút nên
phải nhận lấy cuộc sống ba ch́m bảy
nổi. Tác phẩm đă nói đến nhiều cảnh
ngộ xă hội, nhiều nhân vật có ư nghĩa. Trong
một mức độ nhất định ông đă
phản ánh được nhiều khía cạnh của
hiện thực xă hội đương thời, với
một thái độ phê phán khá sắc bén.
Tuy nhiên, đây là một tác phẩm c̣n nhiều
hạn chế. Chủ đề bị tản mạn,
thiếu tập trung, kết cấu không theo thứ tự
thời gian nhưng sự liên lạc giữa các chương,
đoạn không chặt chẽ, nhiều đoạn
trong tác phẩm c̣n chịu nhiều ảnh hưởng
của tiểu thuyết kiếm hiệp.
Hoàng Ngọc Phách: Ông có một
quyển tiểu thuyết duy nhất là "Tố
Tâm". Tác phẩm viết xong năm 1922, khi ông học năm
cuối cùng của trường Cao đẳng sư
phạm in tại Hà Nội đầu năm 1925.
"Tố Tâm" ra đời đă gây một tiếng
vang lớn trên văn đàn đương thời. Tác
phẩm đă thể hiện sự kết hợp hai
yếu tố cũ và mới trong cả hai phương
diện nội dung và nghệ thuật. Ông đă để
cho hai nhân vật chính Tố Tâm và Đạm Thủy
giằng co giữa hai con đường chạy theo t́nh
yêu tự do hay chấp nhận lễ giáo phong kiến. Tác
phẩm đă khép lại trong kết thúc bi thảm.
Với "Tố Tâm", người tuân thủ đạo
đức truyền thống đă không có hạnh phúc
trong chế độ đại gia đ́nh phong kiến,
mà người muốn sống hết ḿnh cho t́nh yêu
tự do cũng không thể đón nhận hạnh phúc
trong t́nh yêu. Cả đôi đường đều không
thể trọn vẹn, con người bị lâm vào
thế bế tắc. Nguyên nhân bắt nguồn từ
trạng thái lưỡng phân, giao thời của xă
hội. Có thể thấy được, ở "Tố
Tâm" cái tôi tư sản được tác giả
đặt bên cạnh lễ giáo phong kiến. Tất nhiên
ở vào thời đại của ông, ông chưa đủ
sức tấn công vào lễ giáo phong kiến. Ông chỉ
dám nói đến cái tôi trong thế cạnh tranh với
lễ giáo phong kiến, và ông là một "trọng
tài" có sự thiên vị đối với đạo
đức phong kiến, mặc dù thực tâm ông đă
nghiêng về cái tôi tư sản. "Tố Tâm" là
một tác phẩm tiêu biểu thể hiện tính giao
thời của văn học giai đoạn này.
Hồ Biểu Chánh: Trước năm 1930 ông là người
viết tiểu thuyết nhiều nhất ở Việt
Nam. Tác phẩm của ông bao quát nhiều mảng hiện
thực khác nhau ở thành thị và thôn quê Nam bộ trong
những năm sau đại chiến thế giới
lần thứ nhất, với nhiều hạng người
thuộc nhiều tầng lớp và giai cấp xă hội.
Ông đă vượt các nhà văn cùng thời về
sự bề bộn của cuộc sống và sự đông
đúc, đa dạng của thế giới nhân vật
trong sáng tác của ông. Thế nhưng, nhà văn nh́n
những vấn đề xă hội bằng con mắt
đạo đức. Trong tiểu thuyết của ông,
mọi cái xấu xa của xă hội đương
thời đều được đưa ra ánh sáng nhưng
ông không hề hướng vào mục đích tố cáo
hay phê phán xă hội, cũng không đề cập đến
những mâu thuẫn giai cấp trong xă hội. Điều
ông muốn tập trung thể hiện là phê phán, tố
cáo những hành động phi đạo đức. Ông
chỉ muốn cải tạo xă hội, ông không chủ trương
đánh đổ giai cấp địa chủ phong
kiến, mà chỉ sửa chữa nó về mặt đạo
đức. Ông đă phân chia xă hội thành hai hạng người:
Hễ giàu ḷng nhân nghĩa sẽ được hạnh
phúc, c̣n bất nhân phi nghĩa sẽ bị trừng
phạt đích đáng. Quan niệm đạo đức
của ông nh́n chung vẫn c̣n nằm trong khuôn khổ
đạo đức phong kiến. Chính quan điểm
đạo đức như thế đă làm hạn
chế nội dung hiện thực trong sáng tác của ông.
Ông là một tác giả đă
mạnh dạn tiếp nhận những thành tựu
nghệ thuật của tiểu thuyết hiện đại
phương Tây để tạo nên những yếu
tố mới về nghệ thuật trong sáng tác của
ḿnh, thể hiện qua ngôn ngữ, nghệ thuật xây
dựng nhân vật, chi tiết, cốt truyện, đề
tài, v.v....
Ở Nam bộ trước năm
1930, bên cạnh Hồ Biểu Chánh c̣n có nhiều tác
giả khác như Trần Thiên Trung, Nguyễn Chánh Sắc,
Tân Dân Tử. Đây là những cây bút tiên phong của
nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
2.5.2. Kịch nói và cải lương:
Kịch: Là một loại h́nh nghệ thuật sân
khấu rất mới, có giá trị văn học, chỉ
xuất hiện từ khi có sự du nhập của
nền văn hóa phương Tây. Một số tác giả
tiêu biểu thời này như Vũ Đ́nh Long, Nam Xương
đă dùng thể loại hoàn toàn mới mẻ này để
phản ánh hiện thực xă hội đương
thời. Đời sống của các gia đ́nh phong kiến
bị phá sản, sự hư hỏng của con người
trong xă hội tư sản, hiện tượng lai căng
mất gốc... Tuy nhiên, mọi vấn đề
được các tác giả đưa lên sân khấu
để bóc trần sự thật, để phê phán hay
đả kích đều xuất phát từ lập trường
đạo lư, nhằm củng cố nền luân lư cổ
truyền của dân tộc. Cho nên chưa thể xem
nội dung đó là hoàn toàn mới lạ. Khán giả
đương thời hưởng ứng nồng
nhiệt bởi những vấn đề hăy c̣n xưa cũ
ấy được thể hiện trong một h́nh
thức rất mới.
Cải lương: Cũng như
kịch nói, cải lương cũng được xem
là một h́nh thức mới
xuất hiện trong hoàn cảnh xă hội mới. Cải
lương bắt nguồn từ một h́nh thức văn
nghệ dân gian ở Nam bộ. Cải lương thường
được viết theo các tiểu thuyết Trung
Quốc ngày xưa hoặc viết theo các tiểu
thuyết, kịch của ta và Pháp. Khai thác đề tài
lịch sử cải lương rất phù hợp với
thị hiếu của công chúng đương thời.
Cải lương ra đời đă làm phong phú thêm
nghệ thuật của loại h́nh kịch hát tự
sự dân tộc. Tuy nhiên, các văn nghệ sĩ
đương thời ít chú ư đến giá trị văn
học của các vở cải lương. Bấy giờ
có một số vở cải lương được
nổi tiếng như: Phụng Nghi đ́nh, xử án Bàng
Quí Phi, Giọt máu chung t́nh, Giá trị danh dự, Đầu xanh có
tội, Tiếng nói trái tim.
2.5.3. Thơ.
Vào những năm thuộc thập
niên thứ 3 của thế kỷ XX, trên thi đàn công
khai, thơ ca như một ngọn gió thu hiu hắt tràn
tới gieo vào ḷng công chúng thành thị một nỗi
buồn thê lương, dai dẳng. So với tiểu
thuyết, thơ đối với dân tộc ta có
truyền thống lâu đời. Nhưng ở 30 năm
đầu thế kỷ XX, xă hội có nhiều biến
chuyển nên thơ cũng biến chuyển theo.
Nói đến thơ ca của bộ
phận văn học hợp pháp phải kể đến
các nhà thơ: Đông Hồ, Tương Phố, Tản Đà,
Trần Tuấn Khải.
Nội dung chủ yếu của thơ
ca hợp pháp là yêu nước nhưng đó chỉ là
t́nh yêu nước mơ hồ, xa xôi, bóng gió. T́nh yêu nước
đó không đủ thúc giục người đọc
tiến lên hành động, nó chỉ có khả năng
nhắc nhở con người không được làm ngơ
với Tổ quốc.
Nội dung thứ hai của thơ ca hợp pháp giai
đoạn này là bi quan và thoát ly. Các tác giả đă
nh́n thấy được thực tế xấu xa của
xă hội nửa thực dân phong kiến nhưng thấy
để buồn rầu, than thở, rồi đâm ra
trốn tránh, thoát ly, muốn lẫn ḿnh vào rượu,
vào mộng, vào cơi tiên, cơi phật, cốt giữ lấy
cái trong sạch của ḿnh. Cái tôi đă xuất hiện.
Đó là cái tôi tư sản c̣n chịu ảnh hưởng
của đạo đức phong kiến. Chủ nghĩa
cá nhân tư sản cũng được h́nh thành, đang
chống đối lại những ràng buộc khắt khe
của đạo đức phong kiến, đi t́m tự
do trong lối sống, nhất là trong t́nh yêu đôi
lứa.
Những nội dung trên đă
được các thi sĩ thể hiện trong một
vỏ khá mới mẻ, xu hướng tự do, phóng túng,
ít chịu g̣ bó trong các khuôn khổ nghệ thuật cũ
phổ biến. Ở trong thơ ca hợp pháp giai đoaün
này, hầu như các nhà thơ trên văn đàn công khai
đều t́m về với các h́nh thức thơ của
dân gian, của dân tộc (ca dao, dân ca, thơ lục
bát...) để t́m trong cái vốn phong phú ấy những
âm điệu thích hợp với nhu cầu mới.
Tóm lại, những t́m ṭi trong
việc đổi mới về nghệ thuật và
nội dung của thơ ca hợp pháp, mặc dù chưa
mang tính toàn diện, đồng bộ, mỗi người
có một hướng cách tân riêng, không mang lại sự
đổi mới có tính chất nguyên tắc thơ
Việt Nam. Nhưng những việc làm đó và việc
thơ trữ t́nh trên văn đàn công khai tập trung
vào sầu cảm, bi thương vào thế giới bên
trong của con người đă tích cực chuẩn
bị cho sự ra đời của thơ mới lăng
mạn ở giai đoạn 1930-1945.
Ở giai đoạn 1900-1930, văn học chưa làm
nên những kiệt tác nhưng không v́ thế chúng ta xem
nó không có vai tṛ quan trọng trong lịch sử phát
triển. Phải nh́n nhận đóng góp của nó đối
với sự phát triển của nền văn học nước
nhà. Có nó, ḍng chảy liên tục từ thế kỷ
thứ X đến nay không tắt mạch hay chia ḍng.
Văn học giai đoạn đầu
thế kỷ XX có sự hiện diện của cả hai
nền văn học truyền thống và hiện đại,
có sự pha tạp cả hai yếu tố cũ và
mới, tạo nên những giá trị trung gian. Văn
học giai đoạn này đang ở thời kỳ
thử thách, nó không phong phú ở đỉnh cao mà phong
phú ở khả năng phát triển nhanh ở tính đa
dạng. Đó chính là "cái lượng" cần có cho
tiến tŕnh hiện đại hóa văn học ở bước
đầu, để dần dần về sau "lượng"
sẽ biến thành "chất" tạo nên những
thành tựu rực rỡ cho văn học vào giai đoạn
30-45.