CHƯƠNG 5 : VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÊ PHÁN 1930 - 1945
Giới
thiệu 3 tác giả:Ngô Tất Tố- Vũ Trọng Phụng- Nam Cao.
NGÔ TẤT TỐ ( 1894- 1954) |
1. Giới thiệu về tác giả:
_ Gia đình Ngô Tất Tố.
_ Quê hương Ngô Tất Tố
_ Bản thân nhà văn
2. Ngô Tất Tố là nhà báo.
_ Xuất thân là cựu nho có
vốn Hán học phong phú nhưng ông không phải là người bảo thủ.
Ông phản đối lối chạy theo phong trào phục cổ do thực dân Pháp
đề xướng.
_ Ông là người hiếu học luôn
đọc sách tìm tòi, sáng tạo
_ Ngô Tất Tố chịu ảnh hưởng
sâu sắc phong trào ái quốc thời Ðề Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu
Trinh.
_ Lòng yêu nước của Ngô Tất
Tố gắn liền với lòng yêu dân- những người nông dân lao động
cần cù tốt bụng
_ Ngô Tất Tố nhanh chóng đứng
trên lập trường dân chủ tố cáo những áp bức của bọn thực
dân phong kiến. Với tư cách là một nhà báo, Ngô Tất Tố hết
sức tung hoành trên trường ngôn luận, lên án tội ác của thực
dân phong kiến và những thủ đoạn sâu mọt của bọn cường hào
quan lại.
3. Ngô Tất Tố là một nhà văn,
nhà phóng sự:
_ Phóng sự Việc làng gồm 17
chương: đây là một phóng sự về những hủ tục nặng nề ở nông
thôn Việt Nam trước cách mạng tháng tám 1945. Phóng sự Việc làng
mang nét đặc trưng của làng quê Ngô Tất Tố đó là nạn xôi
thịt chức tước làm bao gia đình phải khánh gia bại sản, điêu
đứng,chết chóc, tha thương cầu thực v.v...
_ Nghệ thuật Việc làng có
khuynh hướng gần với lối viết truyện ngắn. Lối kể chuyện
của tác giả linh hoạt. Có khi tác giả đi từ khái quát đến
cụ thể. Có khi tác giả đi từ một hiện tượng, một nguyên nhân
và khái quát lên vấn đề. Do vậy mà người đọc không thấy
đơn điệu.
4. Ngô Tất Tố viết tiểu
thuyết:
_ Tiểu thuyết Lều chõng: tác
phẩm trình bày về chế độ khoa cử một cách tỉ mỉ.
_ Tiểu thuyết Tắt đèn: Tác
giả tập trung vào vấn đề thuế má, một tai họa khủng khiếp
của nông thôn.
+
Trong Tắt đèn xuất hiện loại thuế thân cực kì dã man. Thuế đánh
vào đầu người đàn ông từ 18 tuổi trở lên.
+ Nhân vật chị Dậu xuất hiện lo chạy thuế thân cho
chồng và em chồng. Tính cách của chị xuất hiện.
5. Nghệ thuật tiểu thuyết
Tắt đèn.
_ Kết cấu tác phẩm: hợp lí
chặt chẽ
_ Khắc họa thành công nhân
vật điển hình hóa: mỗi hành động của chị Dậu như chạy
vạy, khóc lóc, kêu gào, chịu đựng và vùng lên mạnh mẽ, đều
diễn ra tự nhiên phù hợp với sự phát triển tâm lí của nhân
vật
_ Nghệ thuật châm biếm thành
công: cách húp canh, súc miệng của Nghị Quế, cách đi đứng của
lão Chánh Tổng. Bộ râu hắc ín trên mép tên quan phủ Tư Ân
v.v...
_ Khả năng phân tích tâm lí nhân
vật
_ Văn viết của Ngô Tất Tố nói
chung linh hoạt song vẫn còn ảnh hưởng ít nhiều lối văn biền
ngẫu: thằng bếp bưng cơm ra. Thằng nhỏ bê chậu nước vào
(Tắt đèn-Ngô Tất Tố).
Tóm lại, Ngô Tất Tố là cây
bút tiêu biểu của dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945. Ngô
Tất Tố không chỉ là nhà viết tiểu thuyết, phóng sự ông còn là
một nhà báo cự phách, một nhà khảo cứu dịch thuật có tài. Thành
công của Ngô Tất Tố là thành công của quan điểm nghệ thuật
vị nhân sinh, của một nhà văn tự thấy phải hoạt động, phải
xông pha, phải lăn lộn với dân chúng.
VŨ
TRỌNG PHỤNG (1912- 1939) |
1. Gia đình và cuộc đời tác
giả:
_ Cha mất sớm, nhà nghèo nghèo
gia truyền. Vũ Trọng Phụng học hết bậc tiểu học phải nghỉ,
đi làm để đỡ gánh nặng cho mẹ.
_ Vũ Trọng Phụng viết báo lúc
18 tuổi. Từ 1930- 1939 ông viết cho nhiều tờ báo. Ông viết
nhiều thể loại khác nhau. Ðặc biệt là thể loại phóng sự và
tiểu thuyết. Ông được tôn vinh là ông vua phóng sự đất Bắc.
_ Do làm việc quá sức, đời
sống nghèo khổ, ông mắc bệnh lao, mất ngày 13/10/1939.
2. Những sáng tác của Vũ Trọng Phụng
_ Truyện ngắn
_ Tiểu thuyết.
_ Phóng sự.
_ Kí sự.
_ Kịch.
_ Dịch thuật.
3. Bộ mặt xã hội thực dân nửa phong kiến trong tác phẩm của Vũ Trọn Phụng
_ Xã hội nông thôn trong tác
phẩm Vũ Trọng Phụng: Giông tố, Vỡ đê.
_ Xã hội thành thị trong tác
phẩm: Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ
4. Tính chất trào phúng trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng
_ Trào phúng là cái cười,
tiếng cười mang ý nghĩa sâu xa, hàm ý châm biếm, mỉa mai, đôi lúc
đả kích sâu cay.
_ Trào phúng bao hàm hai yếu
tố: yếu tố phê phán và yếu tố hài hước. Hai yếu tố kết
hợp với nhau trong tác phẩm của Vũ
Trọng Phụng.
_ Tiếng cười được vang lên
từ những thủ pháp nghệ thuật được sắp đặt theo chủ đích
của tác giả. Sử dụng ngôn ngữ, cách xây dựng nhân vật, hoạt
động của nhân vật. Tính chất trào phúng đạt đến sự thành công
cả về cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật
_ Tính chất trào phúng trong
Số đỏ; Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã vạch trần mặt trái tự
nhiên.
Tóm lại, Vũ Trọng Phụng là
nhà văn hiện thực xuất sắc. Vũ Trọng Phụng đã để lại
những tác phẩm văn học như một di sản văn hóa. Tác phẩm của
ông là một kho phong phú các thủ thuật trào phúng hài hước.
NAM
CAO (1915-1951) |
I.
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ :
1.
Sinh năm 1915 trong một gia đình trung nông ở làng Ðại hoàng, phủ
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (nay thuộc Nam Hà).
Gia
đình Nam Cao sống cũng chật vật. Trong số anh em chỉ có Nam Cao
được ăn học. Học hết phổ thông trung học vì ốm nên không
thi đậu. Nam Cao theo người nhà vào Sài Gòn làm thư ký cho một
cửa hiệu may. Sau trận ốm nặng, Nam Cao lại trở về làng. Ôn
tập lại vốn học và thi đậu, nhưng vì sức khỏe yếu nên không
có việc làm. Sau đó người làng mở trường tư ở Hà Nội, cần
một chân dạy có bằng trung học, Nam Cao được mời dạy. Ðược
ít lâu trường bị đóng cửa vì Nhật chiếm làm chổ nuôi ngựa.
Nam Cao sống vất vả, khi viết văn, khi làm gia sư nhưng cũng không
đủ sống. Thời kỳ này Nam Cao được giác ngộ Cách mạng và
tham gia sinh hoạt tổ văn hóa cứu quốc 1943. Khi cơ sở văn hóa
ở Hà Nội bị khủng bố, Nam Cao về làng tham gia phong trào Cách
mạng ở địa phương. Tổng khởi nghĩa, Nam Cao tham gia cuộc đánh
chiếm Phủ Lý Nhân và làm chủ tịch xã một thời gian, trước
khi được điều lên công tác văn hóa, văn nghệ ở báo trung ương.
-
Những ngày sôi nổi của tuổi trẻ, cũng như buổi đầu đến
với văn học, Nam Cao làm một số thơ lãng mạn và viết những
truyện tình thơ mộng. Ơí thời kỳ này ngòi bút của Nam Cao dò
dẫm tìm một lối đi, tâm hồn Nam Cao dần dần đổi thay, có được
một cái nhìn đúng đắn cuộc sống.
Những
áng mây xốp bồng bềnh trôi nổi, ánh trăng xanh huyền ảo, ngọn
gió mát lành thơm tho thoảng qua từ những mái tóc, tà áo thiếu
nữ, những cuộc hẹn hò, trang sức... Tất cả chất liệu ấy có
lần đến với ngòi bút Nam Cao, mạng theo nhiều mơ ước xa xôi và
những nỗi buồn vẩn vơ của lứa tuổi học sinh chịu ảnh hưởng
của sách báo lãng mạn. Nam Cao trong tuổi trẻ không khỏi có lúc
Tâm
hồn tan tác làm trăm mảnh
Vương
vấn theo ai bốn góc trời
Nhưng
Nam Cao chóng trở về với cuộc đời thực. Cái buồn thường
sớm nhường chỗ cho những cái lo. Nỗi cơm áo, bệnh tật, công
ăn việc làm, Nam Cao không thích sự mơn trớn, vuốt ve "Nghệ
thuật không thể là ...". Nam Cao tìm đến sự thật với tấm
lòng yêu thương cuộc sống, những lớp người và những cảnh đời
đau khổ. Với những rung động xót xa đến cháy lòng trước bao
ngang trái, bất công của chế độ cũ, Nam Cao muốn phơi bày sự
thật của cuộc đời và của lòng người.
Nam
Cao gần gũi và quen thuộc chốn đồng quê và những cảnh đời
lầm than, đau khổ và chính cái làng quê ấy đã đi vào những
trang viết rất chân thật sinh động của ông. Tiếp xúc và cọ xát
với nhiều loại người, nhiều số phận khác nhau, Nam Cao đã từ
cái bao quát chung để thấm thía và chiêm nhiệm cho thân phận
tầng lớp và của riêng mình
Năm
1943, Nam Cao tham gia nhóm văn hóa cứu quốc do Ðảng lãnh đạo. Khi
bị khủng bố gay gắt, Nam Cao về hẳn làng tham gia phong trào
Việt minh ở địa phương. Sau ngày tổng khởi nghĩa nhà văn được
bầu là chủ tịch xã ít lâu sau, Nam Cao được điều lên công tác
ở hội văn hóa cứu quốc, làm thư ký toà soạn báo Tiền phong, cơ
quan của hội. Năm 1946 theo đoàn quân Nam tiến vào vùng nam trung
bộ. Trở về, Nam Cao tiếp tục làm công tác thông tin tuyên
truyền như viết tin, viết tài liệu, làm ca dao, xem sách. Thời
gian này Nam Cao được kết nạp vào Ðảng Cộng Sản Ðông Dương.
Tháng 11-1951 trên đường vào công tác vùng địch hậu liên khu Ba,
Nam Cao bị một toán phục kích bắn chết gần bốt Hoàng đan, Ninh
bình Nam Cao ngả xuống giữa lúc đang ấp ủ cuốn tiểu thuyết
lớn về quê hương chuyến đi đó nhà văn lấy tài liệu để hoàn
chỉnh tác phẩm Làng.
2.
Nam Cao là con người hiền lành trầm mặc nhút nhát đến vụng
về, có vẻ như lạnh lùng khó gần. Nhà văn rất khổ tâm về cái
tật "hãi người" và "cái mặt
không chơi được" (tên một truyện ngắn) của mình. Con người
"Mảnh khảnh thư sinh, ăn nói ôn tồn nhiều khi đến rụt rè,
mỗi lúc lại đỏ mặt mà kỳ thực mang trong lòng một sự phản
khán mãnh liệt".
Trước
Cách mạng, Nam Cao luôn sống trong tâm trạng đau khổ u uất, bất
đắc chí. Ôúm yếu thất nghiệp Nam Cao sống lay lắt bằng nghề
văn và dạy tư là hai cái nghề bạc bẽo khi đó.
Nam
Cao viết văn rất sớm và khá nhiều, tài năng trưởng thành rất
nhanh. Nhưng gần 10 năm viết văn trước Cách mạng. Nam Cao hầu như
không có vị trí gì trên văn đàn đương thời. Hầu hết truyện
dài của Nam Cao đều phải bán bản quyền để rồi bị vứt xó
cho đến khi bản thảo bị thất lạc. Hiếm có một nhà văn có tài
mà bước vào làng văn lại chật vật và bị đối xử bất công
như Nam Cao.
Nam
Cao luôn chất chứa trong lòng tâm sự của người nghệ sĩ "Tài
cao phận thấp chí khí uất"
(Tản Ðà) mà đó cũng là tâm trạng "Phản kháng mãnh
liệt" của người trí thức tiến bộ với cái xã hội bóp
nghẹt cuộc sống con người. Nam Cao không như kẻ khác do bất mãn
cá nhân mà hằn học, thù nghét "cả giống
người". Con người bề ngoài có thể lạnh lùng đó bên trong
là một tâm hồn chan chứa yêu thương.
3.
Sự gắn bó cảm động với bà con dân quê là một tình cảm nổi
bật trong con người Nam Cao. Nhà văn lớn lên trong sự đùm bọc
của những người nông dân nghèo khổ ruột thịt. Ðó là bà
ngoại nhà văn góa chồng năm 22 tuổi, suốt đời vất vả
cực nhọc nuôi con cháu. Ðó là người mẹ hiền lành lam lũ. Ðó
là người vợ chịu thương chịu khó. Ðó là người dì nuôi đã
bế ẵm nhà văn khi còn tấm bé. Hình ảnh những con người đó
trở đi trở lại trong nhiều trang viết của Nam Cao. Tác phẩm
của Nam Cao luôn luôn hiện lên cái làng Ðại Hoàng thân thiết. Hình
ảnh quê hương đã nâng đỡ nhà văn lúc bi quan bế tắc.
Là
một thanh niên tiểu tư sản, lại sống giữa xã hội đầy xấu
xa. Nam Cao không phải không tiêm nhiễm nhiều cái tiêu cực. Nhưng
cái đáng quí ở Nam Cao là tự mình đấu tranh nghiêm khắc để vượt
mình, vượt khỏi cuôc sống tầm thường, nhỏ nhen, đê tiện, vươn
tới cái đúng, cái đẹp, cái cao thượng.
4.
Bước đầu sáng tác: con đường hiện thực đến với Nam Cao
hiện thực và quan điểm sáng tác của Nam Cao
Ø
Nam
Cao ước mơ sáng tác từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường. Ông
đã có thơ, truyện cười, truyện ngắn, kịch vui... đăng báo từ
năm 1938. Nam Cao ít nhiều chịu ảnh hưởng tiểu tư sản đương
thời, ông chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn thoát li. Thơ
của Nam Cao nặng về nỗi buồn vu vơ. Nhưng truyện ngắn Nam Cao chú
ý đến cảnh ngộ đau khổ trong xã hội, kiếm ăn bằng việc mua
vui cho người khác. Một cô đào hát, chết gục giữa tiếng hát
của mình trên sân khấu (Cảnh cuối cùng). Một diễn viên xiếc
nghèo bị tình phụ đã giết chết người tình rồi tự sát khi
biểu diễn (Hai xác chết). Hai chú bé thổi kèn Si-ca-gô và nhào
lộn trên đường phố (Hai đứa trẻ).
Thời
kỳ này khuynh hướng phê phán xã hội cũng đã rõ nét ở Nam Cao
như trong truyện ngắn "Nghèo", "Ðui mù", "Một
bà hào hiệp". Chủ nghĩa hiện thực thật sự được khẳng
định ở truyện ngắn "Chí Phèo"
Ø
Trong
số những nhà văn hiện thực trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Nam
Cao là người có trách nhiệm nhất về ngòi bút của mình. Suốt
cuộc đời lao động văn chương nhà văn luôn suy nghĩ "Sống và
viết" Nam Cao sớm nhận biết tính chất giả dối phù phiếm
của thứ văn thơ "thơm tho" đó. Nam Cao đã kiên quyết đoạn
tuyệt với nó và tiến đến chủ nghĩa hiện thực. Với Nam Cao
từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn tức là từ bỏ con đường thoát li hưởng
lạc ích kỷ, phản bội nhân dân lao động; lựa chọn chủ nghĩa
hiện thực có nghĩa là trở về chỗ đứng của mình trong những
người nghèo khổ ruột thịt. Trong "Trăng sáng" Nam Cao đòi
nghệ thuật phải là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp sống
lầm than "Chứ không phải là món
giải trí của những người đàn bà nhàn nhã ngã mình trên những
chiếc ghế xích đu nhún nhảy" (Trăng sáng) là một tuyên ngôn
cảm động, đanh thép của quan điểm Nghệ thuật vị nhân
sinh" cũng là lời tâm niệm chân thành của nhà văn tiểu tư
sản nguyện trở về, chung thủy với quần chúng nghèo khổ.
Nam
Cao chế giễu cay độc những nhà tiểu thuyết "óc đầm đìa
thuốc phiện", "suốt đời
nhìn trăng" nhân vật lý tưởng của họ là những cô gái nhí
nhảnh, lẳng lơ và rất giả dối, độc ác.
Là
một nhà văn chân chính, Nam Cao bao giờ cũng đặt cuộc sống lên
trên nghệ thuật. Nam Cao tự nhủ phải sống cho đúng thì viết
mới đúng. Khi thực dân Pháp trở lại xâm lăng đất nước ta,
Nam Cao muốn "vứt cả bút đi để cầm súng",
nhà văn cảm thấy "Nếu như chưa cầm súng một phen thì
cầm bút cũng vụng về " (Bút ký Ðường Vô Nam -1946). Với
Nam Cao nghệ thuật phải hiện thực cả trong nội dung và hình
thức. Tiểu thuyết của Nam Cao hình như không có sự hư cấu. Vì
vậy, đọc văn Nam Cao ta kinh ngạc về tính chân thực, điều đó
khiến cho tác phẩm của nhà văn có sức thuyết phục mạnh mẽ.
Về
phương diện lao động nghệ thuật, Nam Cao nhấn mạnh lương tâm
người cầm bút, Nam Cao phê phán nghiêm khắc sự cẩu thả trong
nghề văn coi đó là sự "bất lương" đến "đê
tiện" Nam Cao thấy hết trách nhiệm của người cầm bút với
ý thức trách nhiệm đầy đủ trước xã hội, phải nổ lực để
"hiểu biết, khám phá, sáng
tạo"
II.
ÐỀ TÀI TIỂU TƯ SẢN
1.
Truyện ngắn
Sáng
tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám tập trung viết về
tầng lớp tiểu tư sản nghèo .
Ø
Hầu
hết các nhân vật giống nhau về cảính ngộ, tính cách... ít
nhiều họ đều là hình ảnh bản thân Nam Cao. Ðó là những học
sinh thất nghiệp, những viên chức hạngbét, những giáo khổ trường
tư, những nhà văn nghèo bất đắc chí ... họ "phải bán dần
sự sống để giữ cho mình khỏi chết" (Quên điều độ ).
Nhân
vật chính trong "Xem bói" đó là một thanh niên thất
nghiệp "ăn cháo loãng cầm hơi,
tối đến vợ chồng cắn rứt nhau, những ngày vác đơn khúm núm
đi xin việc hết công sở này đến công sở khác, đã từng bị
những ông chủ hảng đuổi khỏi cửa như đuổi một kẻ ăn mày".
Những lo lắng cơm áo hằng ngày đè nặng cuộc đời họ, giày
vò tâm trí họ, tạo cho họ cái tâm trí xo ro thảm hại, cái
nhịp sống điều độ tội nghiệp.
-
Cả cuộc đời họ không một chút lạc thú, một tiếng cười
vui, có chăng là tiếng cười thiểu não trong truyện "Cười".
Tiếng cười đó còn khổ hơn cả giọt nước mắt của Ðiền
trong "Nước mắt" khi anh cảm thấy mình khổ quá
"Khổ như một con chó
vậy"
Ø
Nam
Cao viết về những nổi đau quằn quại trong tâm hồn, nhiều khi có
tính bi kịch của họ.
-
Họ là những nhà văn mang tên Hộ, Ðiền, Du, có khi được gọi làhắn
và xưng là tôi. Họ thường ôm ấp một hoài bảo về sự nghiệp
tinh thần. Họ đã từng sẳn sàng hiến cả đời mình cho nghề văn.
Với sự say mê, Hộü không còn giới hạn nào trong mơ ước: trong
một phút cao hứng anh tuyên bố, tác phẩm của anh sẽ đoạt
giải Nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu.
-
Tác phẩm của họ có tính nhân đạo. Theo Hộ, tác phẩm có giá
trị phải là "tác phẩm chung
cho cả loài người. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái , sự công
bình... nó làm cho con người gần người hơn "
-
Ở họ giữa ước mơ và hiện thực mâu thuẫn nhau: hàng ngày
chuyện áo cơm ghì sát đất . Lẽ ra ngòi bút của họ phải viết
về một cái gì đó to lớn, góp phần xây dựng nhân loại thì
giờ đây, để kiếm tiền nuôi vợ con đã phải viết toàn những
cái vô vị nhạt phèo, gợi tình cảm rất nhẹ, rất nông. Họ đau
đớn nhận ra rằng mình là một con người thừa.
-
Họ rơi vào mâu thuẩn giữa tình thương và sự nghiệp: họ định
thoát li vợ con để rảnh rang theo đuổi văn chương. Nhưng Hộ không
thể ích kỷ tàn nhẫn như vậy. Hộ đã hy sinh sự nghiệp để
giữ lấy tình thương. Rồi lại rơi vào sự nuối tiếc, sự cục
cằn thô bạo. Khi tỉnh lại, Hộ càng đau đớn hơn nữa lẽ
sống cuối cùng cũng không giữ được. Hộ nói với vợ trong
tiếng nức nở : "Anh ... chỉ là...
một thằng... khốn nạn"
Ø
Người
trí thức trong truyện ngắn Nam Cao còn ghi lại những quằn quại
trong cuộc đấu tranh tư tưởng của người tiểu tư sản.
Ðấu
tranh với xu hướng thoát li hưởng lạc "Quên điều độ
" "Nhìn người ta
sung sướng", "Trăng sáng", "Truyện tình"
Câu
chuyện tội nghiệp của anh chàng Lưu trong "Truyện tình"
với cô Kha nhí nhảnh. Ðó là bài học với anh tiểu tư sản nghèo
cay đắng. Cái cô gái xinh đẹp, nhí nhảnh, thơm tho đầy quyến
rủ kia chẳng phải là của anh, chúng nó chỉ là đứa giả dối,
hợm hĩnh, ích kỷ, đểu cáng, chúng chẳng quý trọng gì người
nghèo mà chỉ lợi dụng cái ngây ngô khờ dại của anh rồi
quẳng anh đi bất cứ lúc nào.
Nam
Cao thù ghét sự ích kỷ độc ác và quan niệm về kẻ mạnh
"không phải là kẻ giẫm lên
vai người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ, kẻ mạnh chính là
kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai của mình " (Ðời thừa).
Nam
Cao luôn muốn bênh vực mọi người bằng lỗi lầm của họ.
Muốn hoà giải con người bằng sự cảm thông. Truyện của Nam Cao
ghi lại những giằng xé quằn quại của người tiểu tư sản
trong cảnh bế tắc, đồng thời cũng ghi lại sự chiến thắng
của tư tưởng nhân đạo.
Nhưng
nước mắt chỉ là nước mắt. Lý tưởng nhân đạo ấy chỉ xoa
dịu và giữ cho Nam Cao trước vực thẳm sa ngã, tuyệt vọng, chứ
hoàn toàn không có khả năng cải tạo xã hội. Nam Cao và cá nhân
vật của mình vẫn bế tắc.
2.
Tiểu thuyết "Sống mòn"
"Sống
mòn" nguyên "Chết mòn" viết xong cuối năm 1944, nhưng
bản thảo
sau khi bán bản quyền cho nhà xuất bản bị vứt lay lắt không
được in mãi năm 1956, "Sống mòn" mới được ra mắt độc
giả lần đầu tiên.
a.
Bi kịch "Chết mòn" về tinh thần tri thức của người tri
thức tiểu tư sản
-
Lớp tri thức tiểu tư sản: sống nghèo khổ tủi nhục, bế tắc
Cậu
giáo Thứ, giáo San: những thanh niên con nhà có máu mặt một chút
ở thôn quê, bằng con đường học hành, họ cố leo lên một chổ
đứng tử tế trong xã hội, những mong thoát khỏi cảnh chân lấm
tay bùn. Nhưng lớp "đồ tây" ấy chẳng may mắn hơn lớp
đồ nho trước họ: hoặc học hành giỏi giang hoặc có mảnh
bằng đấy mà vẫn thất nghiệp. Họ rơi vào tình cảnh dở sống
dở chết. Bị hắt ra ngoài lề xã hội một cách thảm hại.
Nhân
vật Thứ : Thứ đã từng nuôi giấc mộng lớn: "y sẽ vào đại
học đường, y sẽ sang Tây... y
sẽ thành vĩ nhân đem những đổi thay lớn lao đến cho xứ sở mình".
Với niềm tin ngây thơ và lòng hăng hái của tuổi trẻ lãng mạn,
Thứ đi Sài gòn, tưởng đâu là một cuộc viễn du đẹp đẽ. Nhưng
sau 3 năm lặn lội kiếm sống bệnh tật đã trả, quẳng Thứ về
quê nhà để nằm dài thất nghiệp và để chứng kiến cái làng
quê tiêu điều của mình càng thêm điều hơn.
Thứ
phải tìm cái trường tư vô danh ở một xó ngoại ô để dạy
học kiếm sống. Nhưng "công việc mỏi mệt quá đi cày "
mà đồng lương quá bạc bẻo. Thứ làm việc đến kiệt sức, hà
tiện vắt ruột mà cứ túng thiếu không cất đầu lên được.
Cuộc
sống khốn khổ ấy cũng không xong: chiến tranh đến, trường đóng
cửa. Thứ bị hắt về quê ăn bám vợ, "đời y sẽ mốc lên
sẽ rỉ đi, sẽ mòn ra ở một xó nhà
quê...rồi y sẽ chết mà chưa
làm gì cả chết mà chưa
sống !...". Ðó là bước đường cùng không lối thóat
của tầng lớp tri thức tiểu tư sản nghèo, đó là thực trạng
đau sót buồn thảm, bế tắc của cả môt xã hội đang rên xiết.
Nhưng
giá trị "Sống mòn" không dừng ở đó "Sống mòn"
tập trung đi sâu vào bi kịch "Chết mòn" về tâm hồn con
người trong cái xã hội không cho con người sống, có ý thức về
sự sống mà không được sống. Bị nhấn chìm trong cảnh "chết
mòn" mà không cưỡng lại được.
Thứ
khao khát một cuộc sống hữu ích, cao cả Anh có quan niệmkhá sâu
sắc, đúng đắn về ý nghĩa chân chính cuộc sống: "Mỗi người
sống phải làm thế nào cho phát
triển tận độ những khả năng của loài người chứa đựng ở
mình. Phải gom góp sức lực mình vào công việc tiến bộ chung.
Mỗi người chết đi phải để lại một chút gì cho nhân
loại". Nhưng "đau đớn thay cho những kiếp sống khao khát
muốn lên cao nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất". Cuộc đời
khốn nạn bắt Thứ phải sống "cái lối sống quá ư loài
vật, chẳng còn biết đến một việc gì ngoài cái việc
kiếm thức ăn đổ vào dạ dày". Một lối sống mà Thứ hết
sức khinh ghét. Thứ khao khát một cuộc sống rộng lớn luôn
luôn đổi mới. Nhưng cuộc đời đã giễu cợt giấc mộng giang
hồ của Thứ và bắt Thứ kéo lê cuộc sống đơn điệu, mòn
mỏi, tù đọng ở một xó ngoại ô dở tỉnh dở quê, ngày tháng
trôi đi "bình lặng và vô
sự... không có hy vọng gì đổi thay".
Thứ
mong muốn giữa người với người có sự cảm thông, yêu thương.
Anh muốn trân trọng mọi người và có ý thức gần gũi nhân
phẩm của mình. Nhưng "chất độc
ở ngay trong sự sống" thấm vào máu từng người. Chất độc
ấy vùi dập những gì tốt đẹp, kích thích những gì nhỏ
nhen xấu xa trong con người. Thứ cũng không tránh được sự nhỏ
nhen xấu xa trong cuộc sống đang xảy ra chung quanh mình với vợ
con, với bạn bè đồng nghiệp. Thứ có lúc nghĩ tới sẽ phản
bội vợ, vũ phu với vợ, phản bội bạn bè và mong cho bạn
chết. Nghe tin Ðích ốm nặng, Thứ thầm mong Ðích chết ngay lúc
ấy. Thứ đã khóc "khóc cho cái chết của tâm hồn y". Cả cuốn "Sống mòn" là tiếng khóc
lặng lẽ mà đau đớn về "cái chết của tâm hồn".
Với
những mẩu chuyện tầm thường trong sinh hoạt hàng ngày. Nam Cao đã
đặt ra những vấn đề có ý nghĩa lớn lao, sâu sắc. "Sống
mòn" dõng dạc kết án cái xã hội thối nát đã bóp nát mọi
ước mơ, mọi khả năng tiềm tàng và mọi cái tốt đẹp trong con
người, đã tàn phá tâm hồn, giết chết sự sống. Từ chiều sâu
tác phẩm vút lên tiếng kêu khẩn thiết: hãy cứu lấy con người,
cứu lấy sự sống.
b.
Phê phán lối "Sống mòn" và tư tưởng tiểu tư sản
-
Lối "Sống mòn" : ngòi bút sắc sảo của Nam Cao đã phơi
ra ánh sáng những lối "Sống mòn" đáng thương và đáng
sợ.
-
Bộ mặt tinh thần của mấy thầy giáo, cô giáo trong "Sống mòn"
thật buồn tẻ, thảm hại. Họ sống chen chúc trong một không khí
tù đọng, bụi bặm, ẩm mốc. Chỉ mong có miếng ăn và được yên
thân.
Nhân
vật San : sống buông xuôi, luôn thèm khát thú vui vật chất,
chẳng có một ước mơ gì cao xa.
Nhân
vật Oanh : lại "Sống mòn"
theo kiểu khác. Ở người đàn bà "gầy đét,
cứng nhắc và khô" này, tình cảm tâm hồn con người bị
vắt kiệt để chỉ còn những tính toán, ích kỷ, nhỏ nhen,
keo kiệt đến độc ác.
Xã
hội ấy, tình trạng "Sống mòn" là rất phổ biến, ngay
trong những người lao động cũng đầy rẫy những lối sống vô lý,
những lối sống mòn. Cuộc sống của ông Học, ngày nào cũng như
ngày nào, ông dậy sớm, chẻ củi, xay đậu.. "như một
cái máy". Cả đời ông chỉ có hai niềm vui gần như say mê:
ăn mía lau và thổi kèn tàu. Tâm hồn ông có cái hồn nhiên,
đơn giản nhưng quá đơn giản đến nghèo nàn, thô kệch, mù
tối. Theo Thứ sống như vậy chưa phải là sống. "Yên
thân, nhưng yên thân như vậy để làm gì ? Làm để có ăn, ăn để
sống, sống để đợi chết ... cả cuộc đời chỉ thu gọn vào
bằng ấy việc thôi ư ?"
Hình
ảnh u em nhà ông Học "lặng lẽ như một con ma ngồi vá bên
một ngọn
đèn con", "Thứ có cảm tưởng thị vá chỉ vì đêm dài
quá, không sao ngủ hết".
Ðó
là những hình ảnh có sức gợi rất nhiều về việc sống buồn
tẻ, nhẫn nhục, thầm lặng đến phát sợ trong cuộc đời cũ.
Với
một tâm hồn dịu dàng, nhạy cảm với đôi mắt sắc sảo tinh
tế, Nam Cao đã phơi bày không che đậy lối "Sống mòn" đang
phổ biến. Một mặt Nam Cao lên án nghiêm khắc cái xã hội đẩy
con người vào tình trạng giam hãm lâu đời trong cái khổ, trong
sự tù túng và dốt nát. Mặt khác, nhà văn đã thức tỉnh trong
con người nỗi "ghê sợ " lối sống mòn dung tục và
niềm khao khát một cuộc sống đẹp, ý nghĩa.
-
Phê phán lối sống tiểu tư sản
Ø
Nhân
vật Thứ hình ảnh bản thân Nam Cao đã bộc lộ khá đầy đủ
lối sống tiểu tư sản. Nổi bật là tâm lý bất lực, ươn hèn,
cái tính nhút nhát, tật "hãi người " từ bé, tính do
dự, hay nghĩ ngợi quấn quanh, sợ đổi thay, đổ vở, ngại hành
động.
Chính
bất lực và bất động đó dẫn đến tâm trạng tự ti, buồn
tủi rất phổ biến ở người tiểu tư sản nghèo lép vế. Thứ
luôn luôn bị ám ảnh bởi những ý nghĩa cay đắng "y xấu, y
hèn, y chỉ là anh giáo khổ trường tư nên chỉ dám nghĩ, dám nhìn
một người con gái xa xa lặng lẽ... nhìn để buồn... để chua chát
.
Thầy
thanh niên nghèo khổ này đôi lúc cũng vẫn lên nổi thèm khát ăn
chơi hưởng lạc. Dự định đến trọ nhà Hải Nam đã gợi cho
Thứ cả một giấc mộng về cảnh sống đàn điếm, lãng mạn. Có
điều, Thứ vốn là người có ý thức về nhân phẩm, sống vị
tha và có trách nhiệm nên đã tự đấu tranh để vuợt qua được.
Ø
Những
hoài nghi, bi quan về "người đời" tính đa nghi, cái nhìn
xoi mói đôi khi tàn nhẫn đối với người đời. Cái tật hay ghen
không tin "ở lòng dạ đàn bà " của Thứ là những biểu
hiện của tâm lý hoài nghi, vốn có nguồn gốc xã hội sâu xa.
Ø
Thói
sĩ diện hão cũng là một nét nôi bật trong tính cách tiểu tư
sản, nhất là ở phần tử tri thức. Kẻ sĩ diện thường dấu
giếm cái nghèo hèn và phô trương cái giàu sang "cao quí "
của mình. Thứ rất nghèo túng nhưng muốn tỏ ra hào phóng để
rồi sau đó hối hận xót xa. Không dám dọn nhà ban ngày vì sợ
thiên hạ biết mình ít đồ đạc, ban đêm mới lẻn đi giống như
một cô gái chửa hoang đi đẻ. Người tiểu tư sản trong
"Sống mòn" mang tính bi hài
kịch.
c.
Sức mạnh tố cáo của "Sống mòn" và niềm khao khát đổi
thay
Nhân
vật phản diện trong "Sống mòn" là cuộc đời là toàn
bộ cái xã hội tàn bạo đã gây nên cảnh chết mòn thê thảm
của mọi nhân vật. Trên giường bệnh Ðích rít lên trong cơn
hấp hối "Ðời ! ... ôi chao đời !" Thứ cũng hằn học:
"Cuộc sống... cuộc sống
thật là một cái gì nặng nề, trói buộc quá " những tiếng
kêu rên xiết toát lên từ chiều sâu bi thảm của mỗi số
phận, lặp đi lặp lại như một nét nhạc toàn buồn tạo nên cái
âm hưởng chủ đạo của bài ca "Sống mòn".
"Sống
mòn" không trực tiếp phản ánh trên bình diện đấu tranh giai
cấp
nhưng Nam Cao thấy rõ tình trạng bất công phổ biến trong xã hội
đương thời: "Bao giờ và ở
đâu cũng thế thôi. Thằng nào đã chịu khổ quen rồi thì cứ
cố mà chịu mãi đi ! mà thường thường những kẻ ăn nhiều
nhất, hưởng nhiều nhất lại là những kẻ không đáng ăn một tí
nào, hưởng một tí nào ". Trong "Sống mòn" không có
hai chữ chế độ. Nhưng Nam Cao đã đặt ra vấn đề chế độ.
Vấn đề không phải tại "người này hay người kia" mà là
toàn bộ cái xã hội phải thay đổi. "Sống mòn" toát lên
cái yêu cầu cấp bách đòi phá tung trật tự khốn nạn thít
chặt lấy số phận con người.
-
Niềm khao khát đổi thay
Cuối
truyện một sự thật "to lớn quá, mạnh mẽ quá, bi thảm quá
". Nhân loại đang lên "cơn sốt rét", đang "quằn
quại để đổi thay". Phải thay đổi trong bế tắc cùng đường.
Thứ muốn bám vào một niềm tin. Thứ dự cảm thấy một sự đổi
thay to lớn: "Lòng Thứ đột nhiên hé ra một tia sáng mong manh.
Thứ tự thấy hy vọng
một cách vu vơ. Sau cuộc chiến tranh này cuộc sống sẽ dể chịu
hơn, công bình, đẹp đẽ hơn".
Tác
phẩm kết thúc bế tắc, nhưng tia sáng mong manh đó vẫn le lói như
hứa hẹn một bình minh xa xôi sẽ tới.
Nhưng
đổi thay bằng cách nào ? Thứ cho rằng phải "nhìn nhận rõ ràng
cái khổ để tìm cách diệt khổ
". Anh phản đối thái độ sống nhẫn nhục đầu hàng. Xã
hội tương lai mà Thứ mơ ước: "Ai cũng phải làm, ai cũng
phải được no đủ, tự do mà
chỉ ai làm mới được no đủ tự do"
Tuy
vậy, "Sống mòn" chưa vương tới tư tưởng Cách mạng. Nam Cao, về
căn bản cũng chưa vượt khỏi nhãn quan và lập trường tiểu tư
sản. Thứ vẫn cứ là nạn nhân bất lực, chỉ suy nghĩ suông mà
chưa hành động. Ðó là hạn chế căn bản của nhân vật Thứ cũng
là hạn chế của tác giả.
"Sống
mòn"vẫn chưa vượt khỏi khuôn khổ của văn học hiện thực
phê phán. Nhưng trong khuôn khổ ấy nó xứng đáng được coi
là thành công xuất sắc cuối cùng của trào lưu hiện thực phê
phán trước Cách mạng tháng Tám.
III.
ÐỀ TÀI NÔNG DÂN
1.
Những nhân vật nông dân trong truyện ngắn Nam Cao
Mỗi
tác phẩm của nhà văn là một lời tố khổ chân thực, cảm động
về cuộc sống tối tăm, thê thảm của người nông dân.
Nông
thôn trong tác phẩm Nam Cao là nông thôn Việt Nam vốn triền miên
trong bần cùng, giờ đây đang tiến tới thảm họa khủng khiếp
1945.
-
Cảnh chết đói: lão Hạc ăn bả chó tự tử để tránh chết đói.
Anh
Cu Phúc chết lặng lẽ trong xó nhà ẩm thấp trước đôi mắt
"dại đi vì quá đói " của hai đức con (Ðiếu văn).
Bà
cái Tí chết vì một bửa quá no, một kiểu chết đói (Một bửa
no).
Cảnh
đám cưới chạy đói (Một đám cưới). Một đám cưới của
Dần trong cảnh nghèo, không đón đưa, không may mặc, không cỗ bàn,
một đám cưới có 6 người cả nhà gái nhà trai: : "cả bọn
đi lũi lũi trong sương lạnh và bóng tối như một gia đình xẩm
lẳng lặng dắt nhau đi tìm chỗ ngủ ".
Còn
biết bao nhiêu truyện thương tâm về người nông dân bị đày đọa
nhục nhằn xung quanh cái đói (trẻ em không biết ăn thịt chó).
Nghèo từ ngày mẹ chết, Ðòn chồng.
-
Nam Cao chú ý đến những người thấp cổ bé họng nhất, bị áp
bức bất công nhiều nhất, chịu số phận đen đủi, hẩm hiu.
Những kẻ cố cùng như Bình Chức "làm thì cật lực mà quanh
năm vẫn nghèo rớt mùng tơi, chỉ vì một miếng ăn mà
cũng không giữ được mà ăn, đứa nào vớ được nó cũng xoay mà
đứa nào xoay cũng chịu". Như Chí Phèo bị cả xã hội bỏ rơi
ngay từ khi mới ra đời. Ðó là Thị Nở một người đàn bà
ế chồng, sinh ra từ một gia đình có mả hủi, bị loài người
xa lánh. Ðó là một mụ Lợi, Cu Lộ Lang Rận, những người không
được loài người coi là người. Ðó là thân phận trâu ngựa
của những đứa ở cho nhà giàu, những cái Tí, cái Dần, anh Cu Phúc
ăn thì chẳng bao giờ đủ no mà công việc và những lời chửi
rủa thì thừa bửa tứa tát.
-
Bị ức hiếp nhiều nhất có lẽ là người phụ nữ trong xã
hội; đó là dì Hảo (Dì Hảo), Nhu (Ở hiền) những cô gái hiền
như một ngụm nước mưa, cả đời chỉ biết yêu thương, nhường
nhịn nhưng cả đời chỉ gặp cay đắng phủ phàng. Ðó là Mụ
Lợi (Lang Rận), 36 tuổi vẫn lận đận về chuyện chồng con,
chỉ vì nghèo quá suốt đời đi ở "kể người ta nuôi mụ
chỉ biết nuôi, nuôi để mụ hầu hạ người ta, còn cái sự mụ
có chồng hay không có chồng thì mặc mụ ".
Trong
xã hội ấy, thân phận người phụ nữ là thân phận nô lệ, luôn
bị chà đạp thô bạo, bất công có khi họ là nạn nhân khốn
khổ cùng kẻ mà họ phải thờ phụng. Những thằng chồng vũ phu,
tham ăn tục uống, hành hạ vợ một cách dã man (Ở hiền, Dì
Hảo, Ðòn chồng, Trẻ em không được ăn thịt chó )
Ði
vào cuộc đời những con người bị ức hiếp nhiều nhất, càng
hiền lành càng lụi xuống bùn đen, Nam Cao đã làm nổi bật lên tình
trạng bất công ghê gớm trong xã hội: "tại sao trên đời này
nhiều sự bất công đến thế ?". câu hỏi không lời giải đáp
đó trongỞí hiền" một truyện ngắn có tính chất luận đề
nghi vấn, cái "đạo lí ở hiền gặp lành " cũng là vấn
đề Nam Cao đặt ra trong hầu hết tác phẩm của mình.
-
Trong tác phẩm của Nam Cao ta thường gặp những nhân vật nông dân
xấu xí, thô lỗ, độc ác, nhục nhã trong cuộc sống của họ. Ðiều
đó khiến cho một số người hoài nghi ý nghĩa hiện thực và nhân
đạo của nhiều truyện Nam Cao. Ðúng là trong sự biểu hiện một
số truyện Nam Cao có vẻ tự nhiên chủ nghĩa. Nhưng không như
những nhà văn chủ nghĩa nhìn quần chúng như một lũ vật - người
ngu dốt đầy thú tính.
Trái
lại từ cái bề ngoài xấu xí, có khi rất thú vật của người nông
dân đã phát hiện ra tâm hồn con người. Nam Cao không chỉ nói đến
tình cãnh bị bóc lột về thể chất mà đi sâu vào nổi khổ, tâm
hồn con người bị đày đọa, nhân phẩm bị xúc phạm, giá trị
làm người bị tước đoạt.
"Một
bữa no" là câu chuyện cay đắng thê thảm về cái chết nhục
nhã của một bà lão khốn nạn
"Ðòn
chồng" là câu chuyện về một người đàn bà khác bị sỉ
nhục, bêu riếu hành hạ dã man.
"Lang
Rận" là một câu chuyện cực nhục thê thảm nhất. Lang Rận
con người
nghèo khổ, bẩn thỉu bị mọi người hắt hủi đã tìm đến
với Mụ Lợi - một người đàn bà xấu xí bị hắt hủi như mình.
Nhưng mối tình chính đáng tội nghiệp của họ trở thành trò bêu
riếu trò chơi thú vị kích thích tính tò mò của hai đưá đàn bà
nhà giàu "nồng nộng chơi, không suốt ngày tơ tuốt ",
"cười hy hý và phát lưng nhau
đồm độp ... ". Cuối cùng chúng đã đặt Lang Rận vào một
tình thế vô cùng nhục nhã khiến Lang Rận chỉ còn một cách
thắt cổ tự tử.
Bị
sỉ nhục tàn tệ, người nông dân khốn khổ chỉ có thể hoặc
từ bỏ cuộc sống như Lang Rận, hoặc phải từ bỏ lòng tự
trọng nhân phẩm như Cu Lộ, Chí Phèo.
Nam
Cao đã đanh thép lên án cái xã hội chà đạp người nông dân lượng
thiện và dõng dạc bênh vực nhân phẩm của họ ngay trong khi bị
nhục mạ một cách độc ác bất công.
Trước
Cách mạng tháng Tám ít có nhà văn hiểu được cách sâu xa ngõ ngách
sâu kín, những hy sinh thầm lặng mà cao quí trong tâm hồn người
nông dân như Nam Cao. Ðó là chỗ mạnh trong cái tài của nhà văn
nhưng trước hết là ở cái tâm "chữ tâm kia với bằng ba
chữ tài " tức là ở tấm lòng tri âm của nhà văn đối với
người nông dân nghèo khổ.
Số
phận người nông dân có thay đổi được không ? câu hỏi đó,
Nam Cao cũng như mọi nhà văn hiện thực phê phán chưa trả lời
được. Truyện Nam Cao bao trùm một không khí buồn thảm, u ám.
Ðó là cái u ám của hiện thực. Nhưng cũng là u ám trong tâm hồn
Nam Cao. Dưới cái nhìn bi quan của nhà văn, cuộc sống là bế
tắc vô vọng, con người vật vã quằng quại, đau khổ nhưng
chẳng đi đến đâu. Người nông dân thì chỉ biết cúi đầu
chịu đựng, đến khi không chịu đựng được nữa thì điên lên,
liều mạng vát dao giật lấy miếng ăn. Nam Cao không đồng tình đối
với thái độ nhẫn nhục cam chịu: "cái nghề đờii hiền quá
hóa ngu, đã nhịn thì chúng ấn cho
đến không còn ngóc đầu lên được" (Chí Phèo).
-
Miêu tả người nông dân Nam Cao quá thiên về mặt tha hóa nặng
nề, những con người xấu xí đến quái dị, ý nghĩa thẩm mỹ
rất mỏng manh.
-
Trong bi quan, bế tắc có lúc Nam Cao như mất phương hướng rơi vào
khủng hoảng, khi ấy nhà văn dễ tiếp thu tư tưởng định mệnh,
ma quái: "Nửa đêm" những
nhân vật chính đều là những con vật người, điên loạn trong
một không khí ghê rợn.
2.
Truyện ngắn "Chí Phèo"
a.
Chí Phèo lương thiện
Trong
làng Vũ đại, Chí Phèo là thằng cùng hơn cả thằng cùng, không
cha mẹ, không người thân thích, không nhà cửa không có miếng đất
cắm dùi.
Tuổi
thơ bơ vơ hết đi ở cho nhà máy lại đi ở cho nhà khác, đến
tuổi thanh niên làm canh điền cho Bá Kiến.
Sống
cuộc sống lao động cực khổ của người cố nông, khỏe mạnh,
hiền lành, chất phác.
Có
những ước mơ chân chính: một gia đình nhỏ làm thuê cuốc mướn
vợ dệt vải. Trong xã hội cũ, ước mơ chỉ là ảo tưởng, còn
đau xót khổ cực mới là hiện thực.
Chí
Phèo là một thanh niên có tâm hồn đẹp: yêu - ghét, khinh - trọng
rất rõ. Anh đã phân biệt tình yêu chân chính với thói dâm dục
xấu xa. Bị gọi lên bóp chân, đùi cho bà ba anh chỉ thấy nhục
chứ yêu đương gì.
Khi
tỉnh rượu, anh tha thiết được trở lại với xã hội loài người
"thèm lương
thiện muốn làm hòa với mọi người biết bao".
Cuộc
gặp gỡ với Thị Nở đã loé lên một tia chớp trong chuỗi ngày
tăm tối dằng dặc. Sự săn sóc giải dị ở Thị Nở, người đàn
bà khốn khổ ấy đã khơi dậy, đánh, thức bản chất lương
thiện của người cố nông Chí Phèo.
Lần
đầu tiên sau bao năm Chí Phèo nghe tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười
nói của mấy người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ đuổi
cá. Ðây là tiếng gọi tha thiết của sự sống đang níu kéo anh
trở về với lương thiện.
b.
Chí Phèo lưu manh
Quãng
đời lương thiện của Chí Phèo quá ngắn ngủi và chấm dứt khi
bị Bá Kiến cho giải lên huyện rồi đi ở tù : Sau bảy tám năm
biền biệt, khi trở về Chí hoàn toàn thay đổi.
Hắn
không còn là người nông dân nữa mà là phần tử bị loại ra ngoài
xã hội.
Nhà
tù thực dân bắt người lúc lương thiện và thả ra thành hung
dữ, nhà tù giết cái phần "người " của Chí, chỉ còn
lại cái phần "con". Hiện tượng bi thảm ấy có tính
chất qui luật, tính phổ biến trong cái xã hội ăn thịt người.
Trong truyện ngắn của Nam Cao, ta đã gặp những họ hàng xa gần
của Chí Phèo như Trạch Văn Ðoành, Lê Văn Rự (Ông thiên lôi)
"Nửa đêm", Cu Lộ Tư cách mỏ ", Tư Lăng, Binh Chức,
Năm Thọ những tiền bối gần xa của Chí Phèo.
Những
cơn say triền miên của Chí dẫn đến hậu quả : say ( chửi; say
(cướp giật; say ( chém giết.
Chí
Phèo sống cuộc đời bản năng thô bạo, cũng giống như những người
bạn say của Chí "lúc nào cũng nghĩ tới màu xanh của một
chai rượu văn điển và màu
vàng của một đùi thịt chó nướng".
Chí
Phèo trở thành tên quỉ dữ của làng Vũ Ðại. Chí Phèo sống
trần trụi, Chí Phèo gây tội ác một cách vô ý thức.
Sau
khi bị Thị Nở cự tuyệt, Chí Phèo rơi vào bi kịch của con người
không được làm người, muốn làm lại cuộc đời không được
chấp thuận. Trong cơn tuyệt vọng, Chí vác dao đi trả thù.
Chí
Phèo chưa có ý thức giai cấp rõ rệt nhưng dây không phải là
một hành động trả thù có tính chất bản năng mù quáng. Chí Phèo
truy tìm nguyên nhân, phù hợp với trạng thái như chập chờn say
tỉnh của Chí Phèo.
Chí
Phèo chưa có ý thức trả thù Bá Kiến ngay. Trước tiên nghĩ đến
bà cô Thị Nở. Phải chăng theo thói quen của bước chân, Chí đến
thẳng nhà Bá Kiến, nhưng cũng không hẳn là quen chân mà sâu xa hơn
là một nhân tố mới đã xuất hiện trong ý thức của người nông
dân.
Hai
chữ "lương thiện" thốt lên ở cửa miệng con người
khốn khổ vừa là một lời cầu mong, một niềm phẩn uất đồng
thời là một điều tuyệt vọng.
Chí
Phèo trong trạng thái tỉnh của một cơn say đã lần ra đầu mối
của vấn đề. Chí Phèo hiểu rỏ Bá Kiến đãtước đi cái
quyền làm người lương thiện và khả năng trở lại một người
lương thiện. Tiếng gọi đòi trở lại người lương thiện mang
nội dung xã hội và có ý nghĩa giai cấp. Nó như một tia sáng
vụt dậy qua suốt cả cuộc đời cực nhọc tăm tối và đó cũng
là giây phút tỉnh táo, có ý thức nhất, vượt lên khỏi trạng
thái bản năng tự nhiên. Chí Phèo muốn được trở lại chính mình,
trở về với bản chất vốn có của người nông dân sau những năm
tháng dài bi tha hóa.
Hạn
chế về mặt nội dung
"Tre
già măng mọc, thằng ấy chết còn thằng khác". Nhà văn không
hề thấy khả
năng thay đổi vươn lên làm chủ vận mệnh của người nông dân.
Sự thức tỉnh của Chí Phèo chỉ dẫn đến hành động khủng
hoảng bi thảm. Trong thế giới nông dân của nhà văn, nếu không
phải kẻ mặt mày dữ tợn, những con ác thú, thì cũng là những
con sâu cái kiến, sống trong sợ hãi nhẫn nhục đến tê liệt.
Ngay
cả đến Chí Phèo trước khi đi tù, tuy là canh điền khỏe mạnh
nhưng vừa bóp chân cho bà Ba vừa run. Binh Thức thì hèn đến nổi
"ai quát một tiếng thì đái ra
cả quần". Trong cái làng Vũ Ðại không có lấy một bộ mặt
sáng sủa, có sinh khí. Chỉ có một bộ mặt vằn ngang vằn
dọc của Chí Phèo, bộ mặt xấu xí "không được như mặt
lợn" của Thị Nở. Bộ mặt vô nghĩa lí của lão Tư Lãng
thầy cúng kiêm hoạn lợn, của mụ hàng rượu, của bà cô Thị
Nở. Trong cái nhìn tri âm của Nam Cao đối với nông dân vẫn đôi
lúc xen vào con mặt khinh bạc, cố ý trút tất cả những nét
"mỉa mai của hóa công" vào nhân vật Thị Nở một chân
dung biếm họa quá ghê tởm và lạc lõng. Nam Cao cũng như hầu
hết các nhà văn hiện thực phê phán, chưa thể vưỏn tới nhận
thức cách mạng cũng chưa có một quan điểm giai câp chính xác.
Khi triết lý một cách bi quan: những người yếu đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác phải là kẻ mạnh. Nhà
văn đã xóa nhòa ranh giới giai cấp và vô tình biên hộ cho
thống trị đầy tội ác mà nhà văn vừa lên án đanh thép .
IV.
VÀI NÉT VỀ ÐẶC ÐIỂM NGHỆ THUẬT
Nam
Cao có một bản lĩnh nghệ thuật già dặn, một phong cách đa
dạng, mới mẻ độc đáo.
1.
Phản ánh những khía cạnh chân thực
Sức
mạnh tài năng của Nam Cao thể hiện trước trước hết ở sự chân
thực trong nội dung và trong hình thức nghệ thuật.
Một
đặc điểm đặc sắc của Nam Cao là từ những sự việc rất
mực tầm thường quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày đã đặt
vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn.
Ðọc
Nam Cao, ta vừa thấy hiện rõ trước mắt những chi tiết chân
thực cụ thể vừa vương vấn những suy nghĩ triết lý mà tác
giả gửi gắm đằng sau mỗi câu chuyện.
Viết
về người nông dân, cốt truyện đơn giản mà ý
nghĩa xã hội sâu sắc. Viết về người tri thức là viết
theo dòng suy nghĩ của nhân vật.
Truyện
của Nam Cao thường đậm đà ý vị triết lý, mang nặng suy nghĩ.
Ðó là những suy nghĩ được vắt ra từ cuộc sống vất vả,
lầm than, từ những giằng xé của một tâm hồn trung thực cố bám
sát vào cuộc sống và vươn tới chân lý.
2.
Chất trử tình
"Trong
văn xuôi trước Cách mạng, chưa có ai có được ngòi bút sắc
sảo, gân guốc, soi mói như của Nam Cao" (Lê Ðình Kị văn
nghệ số 54, 8-5-1964)
Ngòi
bút của Nam Cao thường lạnh lùng nhưng không hề giống cái lạnh
lùng trước số phận quần chúng của các "tác giả tả chân
tư sản". Ngôn ngữ của Nam Cao
dùng cho "ông Chánh ", "bà phó " và dửng dưng
khi nói đến con người nghèo khổ thường gọi là "hắn
", "y", "thị ", "mụ ". chính giọng bình
thản lạnh lùng ấy là cảm xúc nén lại khiến cho sự phẩn uất
xót thương càng tăng lên.
Ở
nhiều truyện, Nam Cao thường mở đầu bằng tiếng cười hả hê,
vô tâm trước một bộ mặt xấu xí, một tình huống khôi hài
của nhân vật, nhưng khi gấp trang truyện lại, người đọc thấy
sót xa rùng mình về số phận thê thảm của con người bị đè nén,
bóc lột, bị sỉ nhục thậm tệ.
Tác
phẩm của Nam Cao có một phong thái trữ tình thắm thiết. Truyện
Nam Cao thường là truyện ít tình nhiều. Nhiều truyện có tính
chất tự truyện kể về cuộc đời, tâm sự tác giả. Nhà văn thường
xen lẫn tự sự và trữ tình, vừa kể chuyện vừa tham gia vào câu
chuyện. Có khi Nam Cao bước hẳn vào tác phẩm trực tiếp đứng
ra kể chuyện và phát biểu cảm nghĩ của mình.
Số
phận bi thảm của dì Hảo
Câu
chuyệnvề anh Cu Phúc là những lời "điếu văn" cảm động
trước cái chết (Ðiếu văn).
Giữa
một câu văn tự sự bỗng vút lên tiếng kêu thương cảm thán:
"Lão hạc ơi ! Lão hãy yên lòng
nhắm mắt ", "Dì Hảo ơi ! tôi hãy còn nhớ cái ngày dì
bỏ đi lấy chồng. Ðó là một buổi chiều cỏ sương bay".
Một đám cưới "lủi thủi đi trong sương lạnh và bóng tối
như một gia đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chổ ngủ
" (Một đám cưới)
3.
Miêu tả tâm lí nhân vật
Viết
về người nghèo, Nam Cao chú ý đến những đau khổ về tinh thần
của họ. Viết về người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao phát
hiện ra bi kịch tâm hồn.
Thế
giới nhân vật của Nam Cao đông đảo mỗi nhân vật có một
diện mạo tâm lý riêng. Tính cách, tâm lý nhân vật được khắc
họa rõ nét chủ yếu bằng sự soi sáng bên trong hơn là bằng miêu
tả ngoại hình và hành động bên ngoài.
Nhân
vật Bá Kiến có giọng quát "rất sang " và tiếng cười
"Tào Tháo" bá Kiến là một con hổ biết cười.
Nhân
vật trí thức tiểu tư sản Nam Cao chú ý cái thư thế còm ròm, xo
ro, thể hiện một cuộc sống mờ nhạt thiểu não nhỏ nhen. Có
những nhân vật không miêu tả ngoại hình mà vẫn sống vì được
soi sáng từ bên trong.
Ngòi
bút Nam Cao sinh động khi miêu tả diển biến tâm lý nhân vật, Bá
Kiến, Chí Phèo.
-
Truyện Nam Cao kết cấu không theo trình tự thời gian: phần kết
thúc đưa lên trước, thường là bắt đầu từ giữa câu chuyện
rồi mới ngược trở về trước và tiếp tục về sau (Chí Phèo,
Một đám cưới, Ðời thức, Sống mòn)
-
Nam Cao ít tả cảnh, mà có tả cảnh cũng để soi sáng nội tâm nhân
vật. Cũng có trăng, trăng của anh văn sĩ lãng mạn là "liềm
vàng", "đĩa bạc là cái vú
mộng tràn đầy mà thi sĩ của muôn đời mơn man" (Trăng sáng).
Còn trăng trong "Chí Phèo" thì "nhễ nhại",
"rời rợi như là ướt nước
...giẫy lên đành đạch như là hứng tình"
-
Ngôn ngữ trong truyện của Nam Cao là lời ăn tiếng nói quần chúng,
giản dị mà phong phú chắc chắn mà uyển chuyển, có khi xù xì dài
dòng nhưng trong sáng đậm đà thường xen lẫn thành ngữ, tục
ngữ.
V.
KẾT LUẬN
Nam
Cao thực sự là một cây bút văn xuôi đầy tài năng
Một
quan điểm nghệ thuật vững vàng. Nội dung viết ra trong tác phẩm
là tấm lòng yêu thương ưu ái với tầng lớp người biết áp
bức. Văn chương của Nam Cao là "tiếng đau khổ kia thoát ra
từ kiếp lầm than"
Nghệ
thuật của Nam Cao là thứ nghệ thuật tìm tòi, sáng tạo
"Biết đào sâu,
biết tìm tòi, khơi nhữngnguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái
gì chưa có ".
NGUYỄN
ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH (1890- 1969) |
I.
NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH LÀ NHÀ CÁCH
MẠNG:
Bác thời niên thiếu tên là
Nguyễn Tất Thành, những năm hoạt động cách mạng lấy tên là
Nguyễn Ái Quốc và nhiều tên khác.
Bác xuất thân trong một gia đình
nhà nho yêu nước. Lúc nhỏ học chữ Hán, lớn lên học chữ
quốc ngữ và tiếng Pháp ở trường quốc học Huế. Năm 1911,
Nguyễn Ái Quốc dạy học ở Dục Thanh Phan Thiết, sau đó đi ra nước
ngoài, tìm đường cứu nước, từng hoạt động ở nhiều nước
như Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ, chủ yếu ở Pháp. Năm 1919 thay
mặt người Việt Nam ở Pháp, Người gửi tới hội nghị hòa bình
ở Vecxây bản yêu sách quyền các dân tộc. Năm 1920 Nguyễn Ái
Quốc tham gia thành lập Ðảng cộng sản Pháp. Ngày 3/2/1930 Người
chủ trì hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Ðảng
cộng sản Ðông Dương ở Hương Cảng. Tháng 2/1941 Nguyễn Ái
Quốc về nước thành lập Mặt Trận Việt Minh. Từ khi về nước
Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Hồ Chí Minh: đọc bản tuyên ngôn độc
lập, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp và chống
Mỹ đến thắng lợi.
II.
NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH VIẾT VĂN VÀ LÀM THƠ VÌ CÁCH MẠNG:
1. Hồ Chủ Tịch không có ý định
trở thành một nhà văn nhà thơ: vì trách nhiệm của một người
dân mất nước, dường như Người đã linh cảm con đường tương
lai của mình không phải là con đường khoa cử văn chương.
2. Sinh thời không nhận mình là
nhà văn nhà thơ. Trong Nhật kí trong
tù Người viết: Lão phu nguyên bất ái ngâm thi.
3. Thơ văn của người viết ra
đều mang đặc tính. Trước hết về cuộc đời hoạt động cách
mạng, Bác dùng văn thơ như là một phương tiện để tuyên
truyền phục vụ cách mạng.
III.
NHỮNG TÁC PHẨM CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC- HỒ CHÍ MINH:
_ Những tác phẩm kí tên
Nguyễn Ái Quốc:
+ Truyện ngắn Vi Hành 1920
+ Tiểu thuyết: Bản án chế độ
thực dân Pháp 1925.
+ Kịch: Con rồng tre 1922
+ Kí: Nhật kí chìm tàu 1935.
_ Những tác phẩm kí tên Hồ
Chí Minh:
+ Thơ: Ngục trung nhật kí 1942-
1943.
+ Truyện: Giấc ngủ 10 năm
1949.
+ Thơ Hồ Chí Minh gồm một
số bài viết: chữ quốc ngữ và chữ Hán từ 1941 đến 1969. Ngoài
ra còn nhiều bút kí, truyện ngắn, Bác viết ở Pháp, Thái lan,
Trung Quốc. Bác còn dịch cuốn Tỉnh ủy bí mật của Phê-đô-rôp.
Năm 1974 nhà xuất bản đã cho in 6 truyện ngắn và bút kí của
Hồ Chủ Tịch viết thời kì ở Pháp.
IV.
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM NHẬT KÍ TRONG TÙ.
1.
Hoàn cảnh ra đời
Tháng
1- 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Bác về nước, để
chỉ
đạo cách mạng trong nước. Tháng 5 năm ấy Hội nghị lần thứ 8
của Trung ương Ðảng họp ở hang Pác Bó dưới sự chủ tọa
của Người, quyết định thành lập Việt nam độc lập đồng
minh tức là mặt trận Việt minh để đoàn kết đông đảo nhân dân
đánh Pháp đuổi Nhật, giải phóng dân tộc. Cần tranh thủ thêm
sự giúp đở của đồng minh, mà đồng minh gần ta nhất là Trung
Quốc. Người hiểu biết trung Quốc hơn ai hết nên Trung ương cử
Người đi Trùng Khánh nhằm mục đích tranh thủ sự viện trợ
của chính phủ Tưởng Giới Thạch, bên trong thì đặt quan hệ
với Ðảng Cộng Sản Trung Quốc. Bấy giờ Người đổi tên là
Hồ Chí Minh.
Ði
suốt trong 10 ngày 5 đêm, đến một thị trấn Túc Vinh thuộc
tỉnh Quảng Tây, bị khám xét, đồng chí người Trung Quốc dẫn
đường không có giấy tờ bị bắt theo. Bọn bộ hạ của Tưởng
cho là Bác sang phá tổ chức Việt Nam Cách Mạng Ðồng Minh Hội
của Trương Công Bội và Nguyễn Hải Thần, do chúng đỡ đầu. Cũng
bởi thế cho nên những bức điện của Bác gởi cho bọn cầm
quyền trong chính phủ Tưởng đều không được trả lời.
Chúng
giải Bác đi khắp nơi, tay bị trói cổ mang vòng xích, dầm mưa dãi
nắng, trèo núi , vượt truông. Hơn một năm trong nhà tù Tưởng
Giới Thạch Bác đã làm 134 bài thơ in trong cuốn Nhật lý trong tù
trong đó có bài Mới ra tù tập leo núi làm sau khi Bác đã ra khỏi
tù nhưng nhà xuất bản văn học vẫn in chung trong tập Nhật ký
trong tù, xuất bản 1960.
Tháng
5- 1990, kỷ niệm ngày sinh 100 của Bác, người ta đã tìm được
20 bài thơ chữ hán viết trong thời kỳ bác bị giam giữ trong nhà
tù Tưởng Giới Thạch. Như vậy, Nhật lý trong tù sẽ có 134 bài
thơ bằng chữ Hán.
Hồ
Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây ngày 29-8-1942 được trả tự do ngày
10-9-1943, một năm sau nữa, tháng 9-1944, nhà đương cục Trung Quốc
mới để Bác về nước. Bác viết Ngục trung nhật ký trong hoàn
cảnh ấy. Ơí đây thơ bật ra ngoài ý muốn của Người.
Nhật
ký trong tù là cuốn nhật ký ghi chú sự việc xảy ra trong những
ngày Bác bị giam giữ. Nhật ký
trong tù viết bằng thơ chữ Hán không phải là một bài thơ trường
thiên liền mạch mà là nhiều bài, mỗi bài về một vấn đề,
thể điệu có thay đổi nhưng phần lớn là thơ thất ngôn tứ
tuyệt.
Thơ
văn trong tù xưa nay có nhiều bài nổi tiếng như Thi tù tùng
thoại của Huỳnh Thúc Kháng, Xiềng Xích của Tố Hữu. Văn học
thế giới có tác phẩm vĩ đại Viết dưới giá treo cổ của Phu
Xích và Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh là một điều hiếm có.
2.
Nội dung tác phầm Nhật ký trong tù
a.
Nhật ký trong tù thực chất là một bức tranh thu nhỏ của xã
hội Trung Quốc thời Tưởng Giới Thạch
Xã
hội Trung Quốc thời kỳ 1942-43 mục ruỗng từ lâu đời. Nhật ký
trong tù đã ghi lại sự việc Bác đã phải sống, đã chứng
kiến. Quang cảnh Bác nhìn thấy ở những nơi bị giam hay bị
giải đi qua: chuyện bị bắt ở Túc Vinh, sáng trưa, chiều tối.
Chuyện cái cùm, dây trói, cảnh người tù cờ bạc bị chết. Ðây
là đặc trưng của bút pháp tả thực, đứng ở một góc độ
nhất định để diễn tả được một cách rõ ràng, chính xác...
Bác đã đứng ở góc độ người tù nhân đã tường tận nếm
trải mọi cực hình, chứng kiến mọi sự việc xảy ra trong nhà tù
Tưởng Giới Thạch.
Trước
hết hãy nói tới sự bất công vô lí trong nhà tù. Vị lãnh tụ
của Cách mạng Việt Nam vừa sang khỏi biên giới đã bị bắt và
đưa ngay vào nhà tù bọn Tàu tưởng
Ta
là đại biểu dân Việt Nam
Tìm
đến Trung Hoa để hội đàm
Ai
ngỡ đất bằng gây sóng gió
Phải
làm khách quí tại nhà giam.
(Ðường
đời khó khăn)
Cái
gì đang chờ Bác ở đó ? Nhất là khi chúng biết Bác là người
Cộng sản. Mà đường lối xử thế đối với Ðảng viên cộng
sản hồi bấy giờ Thà giết oan một trăm, còn hơn là để một tên
chạy thoát.
Ðăt
chân lên đất Trung Quốc, bác bị bắt ngay ở phố Túc vinh Túc
Vinh khước sử dư mông nhục . Lối chơi chữ Vinh - Nhục nhưng
quan trọng nhất đối với con người là vấn đề danh dự. Nhà tù
Quốc dân đảng đã chà đạp lên danh dự của con người chà đạp
lên nhân quyền của con người. Bọn quân phiệt khắp nơi trên
thế giới là một lũ vô pháp, vô thiên.
Chế
độ xã hội trung Quốc thời Tưởng mục nát từ bao đời thì nhà
tù đâu còn là nơi giáo dục cải tạo mà ngược lại tội ác tha
hồ mà phát triển. Một điều vô lý hết sức, ở ngoài đánh
bạc bị bắt, vào tù tha hồ đánh bạc. Bởi vì đánh bạc ở ngoài
làm rối ren trật tự, đẻ ra trộm cắp, phạm đến quyền bóc
lột và quyền tư hữu của bọn quan liêu. Cho nên vào đây có
tiền thì mua cơm mà ăn, không có tiền thì chết đói
Tù
cứng ngày ngày no rượu thịt
Từ
nghèo nước mắt, bọt mồm tuôn
(Tù
cờ bạc)
Vào
tù không cần hối cải, phục thiện, thậm chí tha hồ gây tội,
tha hồ đánh bạc
Ðánh
bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong
tù đánh bạc được công khai
Bị
tù con bạc ăn năn mãi
Sao
trước không vô quách chốn này.
(Cờ
bạc)
Bọn
chúng không hề đếm xỉa gì đến công lí, pháp luật Nhật ký
trong tù có hai bài thơ Bác nhắc tới việc trốn lính, vợ phải tù
thay chồng. Mà đi lính để làm gì? Không phải là để kháng
Nhật, mặc dù Nhật đánh chiếm khắp nơi, mà để tấn công
Hồng quân Liên xô, Trung Quốc và để khai tăng con số cho nhiều
để kiếm viện trợ ở Mỹ.
Trong
tập thơ có hai bài thơ Bác viết về cảnh người vợ phải đi tù
thay chồng. Ðã là công lí thì ai làm nấy chịu. Thế nhưng nhà tù
Tưởng Giới Thạch sổ toẹt tất cả, chà đạp tất cả. Hơn
thế nữa chúng còn bắt cả trẻ em vào tù.
Sở
dĩ ngã niên tài bán tuế
Cháu
bé trong nhà lao Tân Dương
Nhà
tù của bọn Tưởng đã trở thành nơi đầu cơ hối lộ. Vào tù
phải nộp tiền giam, phải mua chỗ ngủ ở quán trọ, nếu không
phải nằm cạnh chuồng xí, thổi cơm, đun nước đều phải trả
tiền cả:
Thổi
một nồi cơm trả sáu hào
Nước
sôi mỗi chậu,một đồng trao
Một
đồng, của đáng sáu hào chỉí
Giá
cả trong tù định rõ sao !.
(Tiền
công )
Những nét miêu tả trên đâu
phải là những nét cá biệt, 18 nhà tù, Bác đã miêu tả nhiều
hay ít đến như thế. Nếu ngoài xã hội mà liêm chính, không có
cảnh hối lộ công khai, phổ biến thì làm thế nào những chuyện
quái gở ấy thành lệ, thành chế độ trong nhà lao.
Nhật
ký trong tù phải đâu chỉ tố cáo xã hội gián tiếp qua cảnh tượng
nhà lao, nó vươn ra ngoài diễn tả cái xã hội Thái bình của
từng Ban trưởng suốt ngày đánh bạc, cao hơn một bậc cảnh trưởng
chạy quanh làm tiền, trên một bậc nữa huyện trường chong đèn
hút thuốc phiện. Bác đã sử dụng thứ vũ khí châm biếm để nói
lên cái vô lí, cái lố lăng, cái tàn nhẫn đang ngự trị hồi
bấy giờ :
Ban
trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải
người cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong
đèn huyện trưởng làm công việc
Trời
đất lai tân vẫn thái bình.
(Ở
Lai tân)
Tóm
lại, toàn bộ những cảnh tượng đã xảy ra trong Nhật ký trong tù
là hình ảnh thu nhỏ của một xã hội Trung Quốc thời bấy giờ.
Biết bao những thối nát bất công và tàn bạo của chế độ Tưởng
đang đè nặng lên cuộc sống của dân lành. Nói tới sự bất công
ngang trái của chế độ nhà tù Tưởng Giới Thạch những bài thơ
trong Nhật ký như là một cái tát vào mặt kẻ thù. Chất thép
của Nhật ký trong tù là ở đó.
b.
Nhật ký trong tù thể hiện một tâm hồn cao đẹp của Người
Nói
tới tâm hồn có nghĩa là nói tời tình cảm trước hết nói tới
tình yêu thương con người của Bác. Trong văn học nhất là văn
học cổ điển, có những trường hợp tư tưởng tác phẩm tự đặt
ra những vấn đề mà tác giả không hề nghỉ tới như truyện
Kiều của Nguyễn Du. Với Nhật ký trong tù thì trái lại, Bác chưa
nói được hết những điều muốn nói. Nhưng không phải vì thế
mà phẩm chất đạo đức của Bác không ngời sáng trong thơ. Ðồng
chí Viên Ưng một nhà thơ Trung Quốc, sau khi đọc Nhật ký trong tù
viết: Chúng ta được gặp tâm hồn vĩ đại của một bậc đại
trí, đại nhân, đại dũng...tôi cảm thấy trái tim vĩ đại đó
tỏa ánh sáng chói ngời trong một hoàn cảnh tối tăm.
Aïnh
sáng ấy trước hết là ánh sáng của tình thương người. Ðồng
chí Phạm Văn Ðồng nói: Tình nhân đạo , tình thương đồng bào
đó là điều sâu sắc nhất và tốt đẹp nhất trong con người
Hồ Chủ tịch .
Bác
ái ngại cho cảnh người vợ đến thăm chồng trong ngục, người
đứng trong cửa sắt, người đứng ngoài cửa sắt mà cách biệt
như mộtđại dương. Có lần trong tù bổng nổi lên tiếng sáo.
Qua tiếng sáo không những Bác đoán được nổi lòng của người
thổi sáo mà còn nghĩ tới một người nào đó ở phương xa tưởng
như cũng đang bồi hồi vì tiếng sáo:
Bỗng
nghe trong ngục sáo vi vu
(Người
bạn tù thổi sáo)
Cùng
vất vả cực khổ thì Bác lại càng thương người bạn tù chỉ có
cái chăn bằng giấy bồi, đêm thu cũng như Bác, trằn trọc ngủ
không yên. Thương người tù cờ bạc nghèo không có cái gì ăn trước
cái cảnh Ngày ngày no rượu thịt của kẻ khác, đành chịu Nước
mắt bọt mồm tuôn. Thương người bạn tù đêm qua còn ngồi dựa
lưng vào Bác, sáng ngày đã chết cứng. Tuy chỉ là một người tù
cờ bạc nhưng Bác thương sót như thương sót một người thân, câu
thơ đọc lên tưởng như rưng rưng nước mắt
Thân
anh da bọc lấy xương
Khổ
đau đói rét hết phương sống rồi...
(Một
người tù cờ bạc vừa chết)
Thương
những người lao động dầm mưa, dải gió mà công lao chẳng được
bao nhiêu. Tâm trí Bác đã âu yếm ghi lại một cái quán nhỏ bên
đường, chỉ có cháo hoa và muối trắng nhưng khách qua đường
vẫn lấy đó làm chỗ tạm dừng chân.
Thương
tâm nhất vẫn là những em bé. Một em bé mới nửa tuổi, có tội
tình chi cũng phải theo mẹ vào tù. Bài thơ Cháu bé trong nhà lao Tân
dương là lời của một em bé, đọc lên nghe như một tiếng khóc:oa...!
oa...!ooa...!
Bác
thương mọi số phận, tha thiết với sự biểu hiện của sự
sống và của tâm linh dù đó chỉ là các run khẽ của hương hoa
bị người đời và tạo hóa lãng quên, dù đó chỉ là chuyện cái
răng, chuyện chiếc gậy bị Lính ngục đánh cắp. Chẳng phải Bác
cao siêu gì trong quan niệm về con người. Người xưa nói: Nhân chi
sơ tính bản thiện (Mạnh Tử), Tính tương cận, tập tương viễn
(Khổng Tử) Bác có thơ:
Ngủ
thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh
dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền
dữ phải đâu là tính sẵn
Phần
nhiều do giáo dục mà nên
(Nửa
đêm)
Dạ
bán - nửa đêm khi những tù cờ bạc, rượu chè, cướp giật,
những "nạn hữu" nơi tù ngục của người ngủ thì chỉ
mình Người thức. Thức trắng đêm. Một mình ngắm ngía những
kẻ tội lỗi kia và bổng từ khuôn mặt của những kẻ xấu đó
gợi dậy trong Người một xót xa cay đắng, cao hơn một hy vọng,
một quyết tâm cứu vớt chúng sinh. Bác gần gũi Giê su - Thích ca
trong cái mênh mông vô biên đó và chất nhân loại cũng chính là
ở đó. Xuân Diệu nói:" Người bạn tù, người tù là đề tài
nhân loại đối với Bác". Ðặng Thanh Lê từ việc khảo sát
"Hình tượng bằng hữu" trong "Ngục trung nhật ký"
nhận xét chính xác "Bác là một nhân cách văn hóa mang tâm
hồn nhân loại". Ðề tài nào Bác cũng viết, hình tượng nào
Bác xây dựng, nhân vật nào Bác hướng tới nên rất nhân loại.
Chế Lan Viên đã phân tích kỹ về hai mối quan hệ đi về giữa dân
tộc và nhân loại trong Bác. Ơí Bác cái nhân loại trước tiên là
nhân loại - nhân bản, nhân loại - văn hóa. Lòng thương người
ở Bác chính là tinh thần nhân đạo cao độ. Chúng ta càng thấm
thía ở đây là mạch nhân đạo của nhân loại chìm sâu trong Hồ
Chủ tịch, có sức gợi, sức rung kỳ diệu. Mạch nhân đạo đó
giúp chúng ta hiểu vì sao độc lập tự do, hạnh phúc cứ như là
một điệp khúc vang mãi trong tâm tưởng của Người.
Nói
tới tâm hồn cao đẹp ở Hồ Chủ tịch là nói tới lòng yêu người
và tình yêu thiên nhiên. Tình yêu thiên nhiên ở Bác cũng chính là
lòng yêu đời. Cái mạch nhân đạo trong thơ Bác giúp ta hiểu rõ
cảm hứng thiên nhiên ở Người.
Chúng
ta thừa nhận một sự thực phổ biến ngày nay là sự khủng
hoảng sinh thái, khủng hoảng trong quan hệ con người với thiên
nhiên, khủng hoảng này có tác hại không nhỏ đến sự suy thoái
về đạo đức, ứng xử con người với thiên nhiên bị phá vở
Thiên nhiên sinh ra con người. Con người khai thác thiên nhiên để
sống, nhưng lại chống phá thiên nhiên bởi khai thác vô kế
hoạch, con người vẫn chưa cảm nhận đầy đủ sự phản ứng
dữ dội của thiên nhiên đối với mình do mình không công bằng,
chỉ biết vơ vét, chứ không lo bù đắp trở lại.
Trong
sự khủng hoảng sinh thái như vậy thì việc trở về với thiên
nhiên trong cách ăn mặc, ở, trong cách giao hòa cảm xúc với cây
cỏ., trăng sao, một cánh chim, một ánh mây chiều... của Bác là bài
học nhân đạo lớn lao biết nhường nào đối với mỗi người và
cả thời đại. Với Bác thiên nhiên đã làm tốt vai trò sinh thái
cảm hóa con người "Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ".
Với thiên nhiên, Bác đã làm tốt vai trò người hóa: "Cảnh
đẹp đêm nay khó hững hờ". C.Mác nói: "Con người do hoàn
cảnh tạo ra, bởi vậyphải làm cho hoàn cảnh mang tính người".
Bác Hồ là kiểu mẫu đầy nhân đạo trong tính hai chiều đó :
"Mặc
dù bị trói chân tay
Chim
ca rộn, núi hương bay ngát rừng
Vui
say ai cấm ta đừng
Ðường
xa âu cũng bớt phần quạnh hiu"
(Trên
đường đi)
Thiên
nhiên như muốn chia sẻ nổi vất vả với Bác, thiên nhiên muốn sưởi
ấm thêm tâm hồn Bác. Bởi Bác rất hiểu, rất cảm, rất mến
thiên nhiên. Có được tình cảm ấy chính là lòng yêu đời ở Bác.
Giữa
bao nhiêu tăm tối dày đặc vẫn ngời lên ánh sáng của một tâm
hồn thương người và yêu đời vô hạn. Giữa bao nhiêu khổ cực
Bác vẫn vui, vẫn cảm thấy cái vui tràn đầy trong cuộc sống. Cái
vui với trời đất theo một cánh chim, một làn mây, một xóm ven sông
Những
hình ảnh như thế không thiếu gì chung quanh ta, nhưng thường nó
vẫn trôi qua đi không có một tấm lòng yêu đời sâu sắc không
thể nào ghi lại được.
Không
phải cuộc sống ngoài nhà tù Bác nói vui mà ngay trong nhà tù, kẻ
thù cũng không sao cướp hết cái vui hồn nhiên trong cuộc sống
được. Quý làm sao cái vui trên nét mặt những người đang sống
cảnh tù tội:
"Nắng
sớm mặt trời soi cả ngục
Sương
mù khói đặc sẽ tan hơi
Tràn
đầy sinh khí trong trời đất
Tất
cả tù nhân mặt nở tươi"
(Nắng
sớm)
Sáng
sớm vui, trưa cũng rất vui. Cái vui của một con người làm chủ
được mọi hoàn cảnh và biến hiện thực đen tối thành ánh sáng.
"Cơm
xong bóng đã xuống trầm trầm
Vang
tiếng đàn ca rộn tiếng ngân
Nhà
ngục Tĩnh tây mờ mịt tối
Bổng
thành nhạc quán viện hàm lâm"
(Xế
chiều)
Sống
là một niềm vui. Sự thật đơn giản và hiển nhiên là như vậy.
Nhưng chúng ta còn nhớ biết bao nhiêu tiếng kêu khóc thảm thiết
đã vút lên trong văn thơ ngày trước. Trong lòng phải có sẵn
một tâm hồn lớn, một niềm tin tưởng vô biên mới nhìn ra được
cái sự thật đơn giản và hiển nhiên ấy.
Trong
hoàn cảnh xã hội cũ, lại sống trong tù đầy và giữa biết bao
công việc lớn đang chờ đợi thực không dễ gì mà vui. Cũng có
lúc Bác thấy buồn vô hạn:
"Nghìn
dặm bâng khuâng hồn nước cũ
Muôn
tơ vương vấn mộng sầu nay
Ơí
tù năm trọng thân vô tội
Hòa
lệ thành thơ tả nổi này"
(Ðêm
thu)
Tóm
lại, một trong những biểu hiện rất cao của tình thương người
và lòng yêu đời chính là lòng yêu nước. Nhật ký trong tù canh cánh
trong lòng nỗi nhớ nước thương dân. Chân bước đi trên đất
Bắc mà lòng vẫn hướng về Nam, nhớ đồng bào trong hoàn cảnh
lầm than. Bác nhớ tiếng khóc của bao nhiêu em bé Việt Nam qua
tiếng khóc của một em bé Trung Quốc, nhớ đồng chí đưa tiễn
đến bên sông, nhớ lá cờ nghĩa tung bay phất phới, nhớ lúc
tỉnh và nhớ cả trong lúc mơ.
"Một
canh ...hai canh... lại ba canh
Trằn
trọc bâng khoân giấc chẳng thành
Canh
bốn canh năm vừa chợp mắt
Sao
vàng năm cánh mộng hồn quanh"
(Không
ngủ được)
c.
Nhật ký trong tù đã thể hiện một tinh thần bất khuất kiên cường
Tình
thương người lòng yêu đời, yêu nước trong thơ Bác về một
mặt là kế tục truyền thống thơ xưa, nhưng mặt khác lại không
giống thơ xưa, nó là tâm tình của một người Cộng sản, nó
gắn liền với chiến đấu, vững tin ở chiến thắng. Bác từng nói
rất rõ:
"Nay
ở trong thơ nên có thép
Nhà
thơ cũng phải biết xung phong"
(Cảm
tưởng đọc Thiên gia thi)
Ý
chí sắt đá và tinh thần rèn luyện cao độ, Bác đã giữ vững
qua muôn vàn khổ cực và cũng đã từng nói lên được trong
những hình ảnh nên thơ:
"Gạo
đem vào giã bao đao đớn
Gạo
giã xong rồi trắng tựa bông"
(Nghe
tiếng giã gạo)
Cuộc
đời hoạt động của Bác là một bài thơ lớn, tràn đầy sức sáng
tạo. Nhật ký trong tù không thể nào sánh được với toàn bộ bài
thơ lớn ấy. Bác là người làm thơ trong cuộc đời nhiều hơn văn
thơ. Trong sự nghiệp chung của Bác văn thơ chỉ là chuyện phụ.
Trong
cuộc sống nghèo nàn ấy, Bác đã tìm đủ đề tài cho hơn một
trăm bài thơ. Cơ hồ như đối với Bác chuyện gì cũng thành thơ.Chuyện
núi non trăng hoa thành thơ mà chuyện dưa cà mắm muối cũng thành
thơ. Bác làm thơ vì một cái răng, một cái gậy, kể cả những
chuyện rất ít nên thơ cũng thành thơ. Cho nên khi Bác nói trong thơ
nên có thép ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép trong thơ. Có
lẽ phải hiểu một cách rất linh hoạt mới đúng."Không
phải chỉ nói chuyện thép và giọng thép mới là có tinh thần thép".
Trong thơ văn cũng như trong cuộc đời cái điều quan trọng nhất
vẫn là cái thực chất của con người Nhật ký trong tù ít có
những lời hô to nói lớn:
"Giọng
của người không phải sấm trên cao
Thấm
từng tiếng ấm vào lòng mong ước"
(Sáng
tháng năm)
Bác
cứ nhỏ nhẹ, cứ hồn nhiên mà toàn bộ tập thơ toát lên một
tinh thần thép, tinh thần của một anh hùng bất khuất, luôn luôn
vững bước tiến lên, bền gan chiến đấu.
Sống
trong tù lúc nào Bác cũng thể hiện được phong thái ung dung, bình
tĩnh, phảng phất thơ văn của nhà nho xưa đầy khí tiết. Nhưng cái
ung dung ngày trước có khi là cái ung dung của người quay lưng
lại với cuộc đời: trả áo mũ về sống ẩn dật, hay bất
chấp mọi nỗi thăng trầm của thế sự. Bác hoàn toàn không
phải như vậy. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng nói:"Hồ Chủ tịch
là hình ảnh của sức mạnh bình tĩnh không khiếp sợ, không
hoảng hốt, đó là sức mạnh của những người sống một nhịp
với trào lưu của thế giới, với quy luật tiến hóa của lịch
sử. Chính Bác cũng đã nói :
"Sự
vật vẫn xoay đà định sẳn
Hết
mưa là nắng ửng lên thôi"
(Trời
hửng)
Nhật
ký trong tù chúng ta tìm thấy một sức chịu đựng vô cùng mãnh
liệt ở Bác. Nhà tù đã đày đọa thân thể Bác, chúng giải Bác
đi khắp nhà tù này đến nhà tù khác, tối ngủ chân bị cùm, đi
thuyền thì bị treo giò
"Bốn
tháng cơm không no
Bốn
tháng đêm không ngủ
Bốn
tháng không giặt giũ
Bốn
tháng không thay quần áo"
Bị
giam lâu, chân mềm như trùn, thế mà lúc ra tù, Bác tập leo núi
ngay để chờ lúc băng núi rừng về nước. Ðó là cái gương cương
nghị ở Bác.
Bài
thơ "Bốn tháng rồi" đã tổng kết một chặng đường đấu
tranh lâu dài, khốc liệt của Bác ơ trong tù. Chứng kiến những
nổi đau khổ đè nặng lên con người Bác, huỷ hoại thân thể Bác
chúng ta cảm thấy hết sức đau lòng và càng kính yêu Bác. Chúng
ta cũng vô cùng sung sướng tự hào trước chiến thắng của tinh
thần Bác, tinh thần của một chiến sỹ công sản vĩ đại đã
bất chấp cả bạo lực của kẻ thù. Bằng sức mạnh của nghệ
thuật, Người đã truyền cho chúng ta một bài học của một tâm
hồn sáng chói, bất diệt:
"Vật
chất tuy đau khổ
Không
nao núng tinh thần "
(Bốn
tháng rồi)
Nhờ
có tinh thần thép mà mọi gian nguy, hiểm nạn Bác đều vượt qua.
Nhờ có tinh thần thép mà mọi thiếu thồn về vật chất Bác đã
đẩy lùi. Bác là tinh hoa của lịch sử, khí phách dân tộc, và tâm
hồn thời đại.
3.
Nghệ thuật tác phẩm "Nhật ký trong tù "
a.
Nhật ký trong tù đẹp một vẻ đẹp giản dị
Theo
ý Xuân Diệu: "Thơ Nhật ký trong tù theo ý tôi, rất dễ và
rất khó. Dễî là dễ hiểu, giản dị, gần gũi với mọi người,
các bài có cơ sở đầu tiên ở thực tế dễ thông cảm. Nhưng
nếu chưa nâng tâm trí mình lên đúng mức thì chưa thấy hết các
tinh tuý ở bên trong thơ, cho nên nói là rất khó". Xuân Diệu
viết tiếp:"Nếu ai đọc cứ quen theo thị hiếu thông thường,
thích lời thơ phải hoa mỹ như cô gái đeo nhiều nữ trang, thích
vị thơ phải chua cay, ngọt...thì người ấy sẽ thấy thơ này bình
thường quá. Phải ở trong cái không khí cao sáng của trí tuệ này,
phải nối liền mạch với trái tim rất nhân đạo này thí mới
nhận hết được cái chất thơ cao quý này. Người xưa nói:"
Ðối diện đàm tâm" nghĩa là mặt nhìn mặt miệng không nói
mà hai tâm hồn trò chuyện, như vậy là tinh vi lắm, là cái thứ
im lặng rất cao đàm tâm được với nhau". Ðọc Nhật ký
trong tù cũng phải tế nhị như vậy. Cái hay vô song của tập thơ
là chất người cộng sản Hồ Chí Minh, được đào tạo trong lò
hun đúc của Lê Nin mà vẫn mang cái tinh anh của Nguyễn Trãi, Văn
Thiên Tường...
Nếu
nói đến tínnh chất nhật ký, đây là ngòi bút của một phóng viên
ghi nhanh và sắc. Các nét dù là nhỏ nhất trong đời thường cũng
không qua mắt được tác giả: từ giờ giấc trong một ngày:
"Sớm
dậy người người đua bắt rận "
"Hai
giờ ngục mở thông hơi"
"Cơm
xong bóng đã xuống trầm trầm"
Ðến
cảnh đun nấu, mỗi người tù tự tìm cách cải thiện: "Hỏa
lò ai cũng có riêng nồi"
Từ
những lệ tục hủ lậu:
"Lệ
thường tù mới đến
Phải
nằm cạnh cầu tiêu"
(Quá
trưa)
Ðến
những thói ăn người trắn trợn.
"Hút
thuốc nơi này cấm gắt gao
Thuốc
anh nó tịch bỏ vào bao"
(Cấm
hút thuốc lá)
Gặp
những nét ấy nếu một người có cái phương pháp suy nghĩ chỉ
thiên về "vĩ đại", "cao siêu" thì sẽ bỏ đi
hết, làm gì có Nhật ký trong tù nữa. Mất cái tính chất nhật ký
thì chùm thơ cũng mất đi cái đặc tính của nó, cái hương vị
của nó sẽ trở thành ra một chùm thơ khác.
b.
Nghệ thuật trào phúng
Nhật
ký trong tù ta tìm thấy nghệ thuật trào phúng, nụ cười trào phúng
lúc thì đau đớn lúc thì chua xót "cái cùm" và sự đới
nhiều khi đến kỳ lạ:
"Ðược
cùm chân mới yên bề ngủ
Không
được cùm chân biết ngủ đâu"
Có
khi nụ cười gắn với lời tố cáo, như bài "cờ bạc"
mở đầu trình bày sự việc rất điềm tỉnh
"Ðánh
bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong
tù đánh bạc được công khai"
Ðột
nhiên ngòi bút sắc, mạnh đánh kẻ thù bật ngã mà vẫn cứ mát
mẻ:
"Bị
tù con bạc ăn năn mãi
Sau
trước không vô quách chốn này"
Bác
bị giải đi ba mươi huyện mười tám nhà lao, Bác đã quắc mắt
hỏi tội bọn chúng:
"Phạm
tội cái gì ? ta thử hỏi
Tội
trung với nước, với dân à ?"
Giọng
thơ trào phúng không đơn điệu vì nó theo sát tính phong phú của
ý thơ. Mỗi bài thơ mỗi vẻ. Có bài đanh thép như một cái tát vào
mặt quân thù như bài kể chuyện "Nộp tiền đèn" có bài
lời thơ tựa hồ dửng dưng mà thực ra thì tràn đầy căn giận
như bài "Ở Lai Tân". Có bài xót xa chua chát:
"Biền
biệt anh đi không trở lại
Buồng
the, trơ trọi, thiếp ôm sầu
Quan
trên sót nỗi em cô quạnh
Nên
lại mời em tạm ở tù"
(Gia
quyến người bị bắt lính)
Có
bài thơ như một bài nói đùa về ghẻ lở "Ði Nam Ninh ",
"Dây trói", mỗi bài là một tiếng cười như để lấy thêm
sức mạnh.
Tóm
lại, bằng bút pháp vừa tả thực vừa trào phúng, những bài thơ
trong Nhật ký trong tù đã nêu lên được nỗi cơ cực của người
tù nhân và tập thơ lên án chế độ nhà tù phi nhân loại của Tưởng
Giới Thạch.
c.
Nghệ thuật triết lý
Nghệ
thuật thơ Bác là nghệ thuật những bài thơ triết lý sâu sắc như
bài "Nửa đêm"
"Ngủ
thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh
dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền
dữ phải đâu là tính sẵn
Phần
nhiều do giáo dục mà nên"
Hay
bài "Nghe tiếng giã gạo", bài "Học đánh cờ".
Mỗi bài thơ nêu lên một thái độ sống, hay sự nhìn nhận đúng,
hoặc đề ra một cách giải quyết về những định đề đã nêu
ra.
Chúng
ta quán triệt toàn bộ thơ Bác là tư tưởng của một nhà yêu nước
vĩ đại, một nhà Cách mạng vĩ đại. Thơ Bác không phải biểu
hiện cuộc sống mà còn cải tạo cuộc sống, chỉ đạo cuộc
sống. Ðó là tính Ðảng cộng sản lớn lao, đó chính là chất thép
của thời đại.
Nói
đến thơ Bác không thể không nói đến nghệ thuật. Vì thơ Bác là
thơ của tâm hồn, thơ của tình cảm, thơ của tư tưởng, thơ
của hành động, Bác đã sử dụng không biết bao nhiêu phương
tiện biểu hiện thật hết sức phong phú đa dạng, nhiều lúc tưởng
như trái ngược nhau mà lại có một sự nhất quán lạ lùng đó là
sự bình dị tuyệt vời không có ai có thể bắt chước được.
Trong
những bài thơ của Bác bên cạnh những vấn đề rất lớn lao cao
cả, Bác có thể nói đến những vấn đề nhỏ nhặt hàng ngày mà
ít ai có thể nói đến trong thơ: ai có thể ngờ được bên cạnh
câu thơ mang ý nghĩa lớn:
"Ðau
khổ chi bằng mất tự do"
Lại
một câu khác :
"Ðến
buồn đi ỉa cũng không cho "
Thế
mà câu thơ đọc lên không chổi, trái lại làm tăng thêm sức tàn
ác, làm cho việc mất tự do, cái tự do tối thiểu của con người
cũng không có, càng được nhấn mạnh.
Bác
không từ chối một đề tài nào. Bác không từ chối một từ nào
không dùng miễn là từ ấy dùng đúng chỗ, dùng đắt. Bác đem
rất nhiều những từ dùng hàng ngày vào trong thơ mà những từ
ấy không làm cho thơ Bác tầm thường đi. Trái lại câu thơ của
Bác càng sinh động, càng thực, càng xúc động lòng người.
Bác
không từ chối cách nói từ ẩn dụ. tùì cứng" Ngày ngày no
rượu thịt"
Tù
mềm "Nước mắt bọt mồm tuôn"
Lối
chơi chữ của Bác trong bài "Ðêm ngủ ở Long tuyền"
"Ðôi
ngựa" ngày đi chẳng nghỉ chân
Ðêm
"gà năm vị lại thường ăn"
"Ðôi
ngựa" hai chân đi; "Gà năm vị" khi ngủ hai chân phải
bắt chéo lại như chéo chân gà trong mâm cỗ tiệc.
Hay
là cách nói tượng trưng ước lệ, chiết tự, nói nhại đến cách
nói trực tiếp, cách nói hiện thực: rất thực, rất thẳng, rất
sâu
Trong
thơ Bác các yếu tố quan hệ rất hài hòa với nhau: tự sự và
trữ tình, lãng mạng và hiện thực, cổ động và giáo dục,
phản ánh và triết lý... đã kết hợp với nhau một cách chặt
chẽ một cách nghệ thuật.
Trong
Nhật ký trong tù, Bác thích dùng lối đối chọi giữa các mặt đối
lập, tạo nên một sự châm biếm có khi nhẹ nhàng, có khi gay
gắt nhưng cuối cùng gây một nụ cười sâu sắc.
"Ta
thì người dắt, lợn người khiên"
"Uốn
để pha trà đừng rửa mặt"
"Ðánh
bạc ở ngoài quan bắt tội"
"Trong
tù đánh bạc được công khai"
Sự
đối lập ấy tạo nên một sự buồn cười. Bài thơ nói đến đau
khổ mà vẫn trào lộng. Ðọc thơ Bác chúng ta luôn luôn gặp một
nụ cười độ lượng và tế nhị gay gắt mà thấm thía, một
nụ cười riêng của Bác.
Chúng
ta đã nói sự bình dị tuyệt diệu trong thơ Bác. Sự bình dị
tuyệt diệu đó bắt nguồn từ con người của Bác, từ cuộc
sống hàng ngày của Bác. Bình dị mà không tầm thường, giản
dị mà không đơn giản. Bác nhìn cuộc sống từ nhiều mặt đối
lập của nó, nhìn hiện tại mà hướng về tương lai, coi trọng tư
tưởng mà rất chú trọng đến nghệ thuật.
V.
KẾT LUẬN:
Tập
thơ Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy viết bằng
chữ Hán nhưng về mặt nội dung và cả về mặt phong cách nghệ
thuật rõ ràng là một tác phẩm văn học Việt nam đậm đà tính
dân tộc. "một tác phẩm văn học lớn có tác dụng giáo dục
sâu sắc phầm chất đạo đức Cách mạng cho tất cả chúng ta ngày
nay".(Lời nói đầu khi xuất bản cuốn Nhật ký trong tù của
Viện văn học ). Tập thơ đưa ta đi sâu vào những cảm xúc,
những suy nghĩ , những băn khoăn của một con người cộng sản vĩ
đại trong một hoàn cảnh khó khăn. Chúng ta có cái may mắn được
nghe những lời tâm sự của một vị lãnh tụ kính yêu vì thế
tấm gương đạo đức cao cả của Người đối với ta vô cùng
gần gũi. Tôi muốn nhắc lại ý thơ của Hoàng Trung Thông trong bài
"đọc thơ Bác"
"Tôi
đọc trăm bài trăm ý đẹp
Aïnh
đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần
thơ của Bác vần thơ thép
Mà
vẫn mênh mông bát ngát tình "