CHƯƠNG 4 : PHONG TRÀO THƠ MỚI 1930 - 1945
I. SỰ RA ÐỜI CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI |
Sau
chiến tranh thế giới lần thứ I (1914-1918), ở Việt Nam xuất
hiện một giai cấp mới, đó là giai cấp Tư sản.
Chủ nghĩa tư bản đồng thời xâm nhập và thống trị đất
nước ta, gây nên một cuộc xáo trộn lớn chưa hề thấy trong
mấy nghìn năm lịch sử Việt Nam. Những giá trị tư tưởng vững
bền từ cuối thế kỷ XIX đã trở thành đối tượng mỉa mai cay
đắng trong thơ Tú Xương. Sau chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, đi đôi với chính sách đẩy mạnh khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp, làn gió mới Tây Âu cũng tràn vào Việt Nam.
Tầng lớp tiểu tư sản thành thị có điều kiện hình thành sớm
hơn sau đợt khai thác kinh tế lần thứ I của thực dân Pháp.
Giai cấp tư sản và
một bộ phận tiểu tư sản lớp trên (trí thức, viên chức cao
cấp đã có một lối sinh hoạt văn minh ở thành thị. Người ta
ở nhà lầu đi ô tô, dùng quạt điện, đi hòa nhạc. Sinh hoạt
của tư sản và tiểu tư sản thành thị cũng thể hiện ngay cả
trong cách ăn mặc của thanh niên nam nữ, các cô gái chàng trai,
mỗi năm một mốt. Những đổi thay về sinh hoạt dần tới sự
thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Những thay đổi đó cũng do sự
tiếp xúc với văn học Pháp đặc biệt là văn hóa lãng mạn Pháp.
Chính những đổi mới
trong sinh hoạt tư tưởng và sự tiếp xúc với văn học lãng mạn
Pháp đã dần dần đem đến cho thanh niên tiểu tư sản thành thị
những năm 30 của thế kỷ này những tình cảm mới, những rung động
mới. Họ yêu đương mơ mộng, vui buồn khác các nhà thơ xưa.
Trong buổi diễn thuyết ở nhà hội Quy Nhơn tháng 6-1934, Lưu
Trọng Lư đã nói :Các cụ ta
ưa những màu đỏ chót, ta lại ưa màu xanh nhạt,đứng trước
một cô gái xinh đẹp các cụ xem như là một việc làm tội lỗi,
còn đối với ta như đứng trước một cánh đồng xanh mát mẻ...
Chính vì sự khác nhau sâu
xa đó giữa hai thế hệ mà những câu thơ ngâm hoa vịnh nguyệt sáo
mòn và cũ rích trên Nam Phong , Văn học tạp chí, Tiếng dân không
còn hợp với tình cảm mới của họ. Phong trào Thơ mới lãng
mạn ra đời năm 1932 chính là để đáp ứng nhu cầu tình cảm
của một tầng lớp thanh niên mới.
Một phong trào văn học
ra đời bao giờ cũng phản ánh những đòi hỏi nhất định của xã
hội. Nó là tiếng nói của một tầng lớp người, của một giai
cấp vừa mới ra đời, đang lớn lên hoặc già cỗi trong xã hội.
Thơ cũ trong Nam Phong, Văn học tạp chí là tiếng nói của một
tầng lớp phong kiến đã thất bại và đầu hàng đế quốc. Văn
học lãng mạn 1932 trở đi là tiếng nói của tư sản và tiểu tư
sản thành thị. Thơ mớichủ yếu là tiếng nói của giai cấp tư
sản và tiểu tư sản thành thị là nguyên nhân chính cho phong trào
Thơ mới ra đời.
II. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI |
Theo
ông Phan Cư Ðệ có thể chia phong trào thơ mới ra 2 thời kỳ:
1932-1939
1940-1945
Còn giáo trình Lịch
sử văn học Việt Nam thì chia làm 3 thời kỳ, chia như thế có
lẽ hợp lý hơn.
1.
Thời kỳ 1932-1935:
Thơ
mới ra đời trong một hoàn cảnh như trên đã trình bày. Những
biểu hiện ban đầu nổi lên trên bề mặt công luận là cuộc đấu
tranh chống lại thơ cũ.
Bắt đầu quá trình
sinh thành của Thơ mới, bài thơ được gọi là Thơ mới và dư
luận khen chê sôi nổi là bài Tinh già của Phan Khôiđược ra mắt
bạn đọc trên Phụ nữ Tân văn số 122, ngày 10-3-1932, cùng với bài
giới thiệu lấy tên Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ:
Hai
mươi năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa . dưới ngọn đèn
mờ , trong ngôi nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở:
Ôi
đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn không đặng
Ðể
đến nỗi tình trước phụ sau, chi bằng sớm liệu mà buông nhau
Hay!
Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ.
Thương
được chừng nào hay chừng ấy, chẳng qua ông trời bắt đôi ta
phải vậy.
Ta
là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung...
Hai
mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau:
Ðôi
cái đầu bạc. Nếu chẳng quen lung đố có nhìn ra được!
Ôn
chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi, con mắt còn có đuôi
(Tình già- Phan Khôi)
Bài
giới thiệu của Phan Khôi cùng với thơ Tình già được coi như phát
súng lệnh của phong trào Thơ mới. Từ đây cuộc đấu tranh rầm
rộ của thơ mới vào thơ cũ. Trên hàng chục tờ báo cả 3 miền
Bắc, Trung, Nam và trên nhiều diễn đàn, từ Sài gòn, Quy nhơn ra
Nam định, Hà nội, người ta ra sức phê phán thơ cũ.
a.
Cuộc đấu tranh giữa thơ cũ và thơ mới:
Tháng
11 năm 1917 trên Nam phong tạp chí Bàn về thơ Nôm, Phạm Quỳnh
viết: thơ cũ là phiền phức, luật lệ ràng buộc, khắc nghiệt
không khác luật hình.
Năm
1928 trên báo Trung Bắc Tân Văn, Nguyễn Văn Vĩnh dịch bài thơ
của LaFontaine:
Con
ve sầu kêu ve ve
Suốt
mùa hè
Ðến
kì gió bấc thổi
Nguồn
cơn thật bối rối...
Ðây
là bài thơ dịch theo thể thơ tự do và được người đọc rất
hâm mộ. Ðây chính là cơ sở cho một thể thơ mới ra đời.
Cuộc
bút chiến này có hai phe, phe thơ cũ và phe thơ mới.
_
Ý kiến của phe thơ mới:
Phụ nữ Tân Văn số
29, ra ngày 21 tháng 11 năm 1929: ... lối thơ Ðường luật bó buộc
người làm thơ phải theo khuôn phép tỉ mỉ, mất cả hứng thú
tự do, ý tưởng dồi dào, nếu ngày nay ta cứ sùng theo lối thơ
ấy mãi thì làng văn Nôm ta không có ngày đổi mới được
(Trịnh Ðình Rư)
Ngày 10 tháng 3 năm 1932
phụ nữ Tân Văn số 132 một lối thơ trình chánh giữa làng thơ.
Ðó là bài Tình già của Phan Khôi. Tác giả đem trình làng đứa
con tình thần có trước bạ.
Phan Khôi viết: lâu nay
mỗi khi có hứng, tôi toan mở ngâm vịnh thì cái hồn thơ của tôi
lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Ðỗ, ông Bạch, ông Tô
choán trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư thì cụ Tiên Ðiền, bà
Huyện Thanh Quan đè ngang ngực làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào
mình muốn nói lại nói không được, thì đọc đi đọc lại nghe
như họ đã nói rồi. Cái ý nào chưa nói, mình muốn nói ra lại
bị những niêm luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ
loanh quanh, luẩn quẩn trong lòng bàn
tay của họ thật là dễ ức.
Việc làm của Phan Khôi
không vì danh, không vì hiếu sự mà chính vì tình cảnh thúc bách,
ý tưởng duy tân, tìm một mảnh đất mới cho thế hệ trẻ. Phan
Khôi kêu lên:Duy tân đi? Cải lương đi?
Lưu Trọng Lư là người
theo chân Phan Khôi. Lưu Trọng lư được kể vào lớp chiến sĩ
xung kích trên mặt trận khẩu chiến và bút chiến.
Thơ
thách họa các cụ đồ
Ðôi
lời nhắn nhủ bạn làng nho
Thơ thẩn, thẩn thơ, khéo
thẫn thờ
Con cóc Nghè Huỳnh đuôi
cọc lóc
Nàng thơ Ấm Hiếu mũi
thò lò
Chai to, chai nhỏ con
cầy béo
Câu thánh, câu thần
đĩa mực khô
Nắn nót miễn sao lên
bốn ghế
Chẳng thơ thì cũng cóc
cần thơ
Nữ sĩ Nguyễn Thị Kiêm
đăng đàn diễn thuyết lên án thơ cũ: thơ Ðường
luật một lối thơ rất bó buộc về từng câu, từng chữ, chặt
chịa về luật bằng trắc, về phép đối câu đối chữ. Vì khuôn
khổ luật pháp phiền phức nên người làm thơ phải đứng ở
trong một vị trí eo hẹp lúng túng...
Hồ Văn Hảo tuy không bút
chiến khẩu chiến gay gắt với phái thơ cũ nhưng ông có hai bài
thơ góp vào tiếng nói của thơ mới, đó là bài Con nhà thất
nghiệp và bài Tình thâm
_
Những ý kiến bênh vực thơ cũ:
Trước sự tấn công
của phe thơ mới, phe thơ cũ cũng phản kích lại một cách quyết
liệt. Các nhà thơ cũ cho rằng thơ mới không tao nhã. Bài thơ đăng
trên An Nam tạp chí số 6:
Ông
Tản Ðà nhắn bạn Phong hóa
Mấy
lời nhắn bảo anh Phong hóa
Báo
đến như anh thật láo quá
Từ
tháng đến năm không ngớt mồm
Sang
năm Quý Dậu phải kiếm khóa...
Năm 1933 ông Tân Việt
trên báo Công luận bênh vực thơ cũ (diễn đàn
hội khuyến học Sài Gòn)
Ông Nguyễn Văn Hạnh
diễn thuyết tại hội khuyến học Sài Gòn tranh luận với Nguyễn
Thị Kiêm.
Năm
1933-văn học tạp chí Hà Nội chê thơ mới không biết cân nhắc
chữ dùng.
Năm
1934 trên Tạp chí Văn Học, ông Ðào Duy Tư phản đối bài diễn
thuyết của Lưu Trọng Lư
Năm
1935 hai ông Tường Vân, Phi Vân cho xuất bản tập thơ cũ Những bông
hoa trái mùa chống lại thơ mới.
Năm
1936 ông Thái Phĩ công kích thơ mới trên báo tin văn Hà Nội.
Năm
1941 ông Huỳnh Thúc Kháng sau nhiều lần bị chỉ trích, nhất
quyết khẳng định thơ mới đến ngày mạt vận.
Suốt
những năm 1933-1935, những cuộc khẩu chiến và bút chiến giữa
hai phe mới cũ nhưng khi Thế Lữ xuất hiện như một đòn dứt điểm.
Tản
Ðà hình như đặt mình vào vòng, mặc dù bị báo Phong Hóa thỉnh
thoảng lôi ra để châm biếm. Tuy nhiên ngày 30-11 năm 1934 Tản Ðà
có viết một bài in trên tiểu thuyết thứ Bảy, nhan đề Phong trào
thơ mới. Ông trình bày với mọi người những bài thơ ông làm cách
đây 20 năm. Ông cũng làm thơ tự do như bài Tống Biệt. Tản Ðà
dùng lời lẽ ôn hòa, cảnh tỉnh lớp người mới, cái mà lớp người
sau gọi là mới chính Tản Ðà đã trải qua. Chỉ có khác ở nội
dung.
b.
Những nhà thơ tiêu biểu trong thời kì 1932-1935
_
Lưu Trọng Lư:
Lưu Trọng Lư là người
diễn thuyết hăng hái nhất bênh vực thơ mới và là người có công
khai sinh ra thơ mới. Bài thơ Ðường đời và Vắng khách thơ là
những bài thơ mới của Lưu Trọng Lư xuất hiện sau bài Tình già
của Phan Khôi.
Bài thơ của Lưu Trọng
Lư sau này đưa vào tập Tiếng thu đổi tên là Xuân về :
Năm
vừa rồi
Chàng
cùng tôi
Nơi
vùng giác mộ
Trong
gian nhà cỏ
Tôi
quay tơ
Chàng
ngâm thơ
Vườn
sau oanh giục giã
Nhìn
ra hoa đua nở
Dừng
tay tôi kêu chàng...
Này,
này! Bạn! Xuân sang
Chàng
nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi
nhìn chàng, long vồn vã...
Rồi
ngày lại ngày
Sắc
màu: phai
Lá
cành: rụng
Ba
gian: trống
Xuân
đi
Chàng
cũng đi
Năm
nay xuân còn trở lại
Người
xưa không thấy tới
Xuân
về.
Thơ
Lưu Trọng Lư là một lối thơ quen thuộc của dân tộc, một chút
xưa của thơ Ðường. Lưu Trọng Lư đến với thơ bằng cả tâm
hồn sầu mộng của mình. Trong thơ ông, mọi hình ảnh mọi âm
thanh của cuộc sống đều được vào thế giới thơ mộng. Chỉ
một làn nắng mới, một tiếng chim hót cũng đưa thi sĩ trở về
dĩ vãng, thế giới của ký niệm buồn thương. Lưu Trọng Lư rất
nhạy cảm với những rung động mơ hồ của thiên nhiên, của
nội tâm. Từ tiếng thổn thức của trăng mờ: Còn đâu ánh trăng
mờ- Mơ trên làn tóc rối., đến con nai vàng ngơ ngác trong rừng
thu cũng đem lại một cảm giác buồn man mác trong thơ ông. Hay đôi
mắt buồn của người đẹp bên cửa sổ: Ðôi mắt em lặng buồn
. Nhìn thôi mà chẳng nói.. Tất cả đều chập chờn như trong mơ
và bàng bạc một mối sầu hoài cảm. Lưu trọng Lư hầu hết
diễn tả những cái buồn bên trong. Tiếng thổn thức của mùa
thu, cái rạo rực trong lòng người cô phụ không nghe được từ bên
ngoài. Bài Tiếng thu là bài thơ nổi tiếng của Lưu Trọng Lư. Bài
thơ không chỉ tạo hình, tạo dáng cho mắt thấy tai
nghe mà cho tâm hồn, cho cảm xúc, cho tưởng tượng. Lưu
Trọng Lư viết về tình yêu như con tàu tách bến :
Em ngồi bên song cưả
Anh đứng
tựa tường hoa
Nhìn nhau mà lệ ướt
Một ngày một cách xa.
Thơ
Lưu Trọng Lư diễn tả cái tôi đang say sưa thoát li vào mộng tưởng.
_
Thế Lữ:
Thế
Lữ xuất hiện như một vận động viên quyền anh nặng kí, điểm
đúng huyệt, dứt điểm cuộc giao tranh giữa thơ mới và thơ cũ.
Trên văn đàn, Thế Lữ không bàn về thơ mới, không bênh vực thơ
mới, không bút chiến khẩu chiến. Thế Lữ chỉ lặng lẽ điềm
nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng
ngũ thơ xưa phải tan rã (Thi phẩmMấy vần thơ).
Ông
là người có công trong việc xây dựng nền thơ mới. Phan Khôi, Lưu
Trọng Lư chỉ là người làm cho người ta chú ý đến thơ mới mà
thôi, còn Thế Lữ mới chính là người làm cho người ta tin cậy
vào tương lai của thơ mới. Thế Lữ xuất hiện được Hoài Thanh
đánh giá rất cao: Ðộ ấy thơ mới vừa ra đời. Thế Lữ như
vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam.
Thơ
Thế Lữ tiêu biểu cho tiếng nói của cái tôi trong thơ mới thời
kì đầu. Nó hăng hái tự khẳng định, vẫn ít nhiều còn dè
dặt, tình yêu còn mức độ, chứ chưa buông tuồng, ích kỉ
trắng trợn như về sau. Thế Lữ nói đúng cái tôi trong thơ mới
khi kêu gọi yêu đi, yêu mãi bạn lòng ơi.
Thơ Thế Lữ thời kì
đầu say sưa thoát li hiện thực. Nhưng những sự kiện lớn lao
của lịch sử còn dư vang trong tâm trí. Thơ Thế Lữ có ấp ủ
một tinh thần dân tộc, một khát khao tự do. Thời kì đầu tinh
thần dân tộc đó chính là tiếng vọng lại xã xôi của phong trào
(1930-1931).
Thơ Thế Lữ diễn tả
nỗi buồn. Thế Lữ đưa vào thơ Việt Nam cái buồn vô cớ, cái
buồn thi vị, lúc đó cái buồn đang là cái mốt. Cái buồn trở
thành một thứ trang sức của trí thức tiểu tư sản. Cái buồn bàn
bạc khắp nơi, cả trong giấc mộng, trong cảnh tiên:
Tiếng
đưa hiu hắt bên sông
Buồn
ơi xa vắng mênh mông là buồn...
(Tiếng
sáo thiên thai)
Thơ mới nói chung là
buồn. Cái buồn nhiều khi lẫn lộn với cái bi quan yếu đuối. Xưa,
nay những áng thơ hay trong quá khứ hầu hết là buồn: Thơ Cung oán
ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Truyện Kiều... đều buồn. Những câu
ca dao hay nhất là những câu buồn. Nhà phê bình văn học Bielinxki:
cái buồn chính là làm nên sự hấp dẫn của thơ ca...
Bi quan là buồn, nhưng
buồn không nhất thiết là bi quan. Cuộc đời có lúc
vui, lúc buồn, trước kia cũng thế và bây giờ cũng thế, chỉ có
tỉ lệ thay đổi. Trước sự hi sinh của đồng bào, đồng chí không
thể không buồn. Nếu bi quan thì không tin vào một cái gì, chán
nản, từ bỏ sự sống, bàng
quang trước sự phải trái, đúng sai, tốt xấu, không thiết tha
với bất cứ cái gì.
Cái buồn cũng có năm
bảy đường, cái buồn của Thế Lữ là cái buồn mệt mỏi bất
lực. Cái buồn Xa vắng mênh mông, nước lặng mây ngừng chưa
phải là cái buồn thê thảm hãi hùng như sau này.
2.
Thời kì 1936-1939:
Thời
kì này xuất hiện nhà thơ Xuân Diệu trường hợp mới nhất trong
các nhà thơ mới (thi nhân Việt Nam). Xuân Diệu xuất hiện chiếm
hẳn dịa vị độc tôn trên thi đàn. Tiếng thơ của Xuân Diệu như
luồng gió mát thổi tâm hồn trẻ: Xuân Diệu là nhà thơ đầu tiên
của Việt Nam đã áp dụng thuyết hiện sinh vào thi ca (Nguyễn
Tấn Long-Việt Nam thi nhân tiền chiến).
Xuân Diệu vừa xuất
hiện gây dư luận sôi nổi. Phái thơ cũ coi là khả ố cần phải
tiêu diệt vì nó quá sỗ sàng trắng trợn. Người ta chê nào là
ngây ngô nào là tây quá thơ đâu lại có thứ thơ quái gỡ như
vậy. Người ta đả kích cái tư tưởng kém lành mạnh.
Xuân Diệu làm thơ quá
mới mẻ đối với nền học thuật Việt Nam từ trưóc đến
nay. Tư tưởng của ông thường quá táo bạo không ngại ngùng e dè,
chỉ thích nói lên những gì mình cần nóiï mà thôi.
Trong bầu không khí sôi
nổi giữa tân và cựu, Hoài Thanh thoạt tiên cũng có vẻ hoài nghi
đối với sự xuất hiện của Xuân Diệu song Hoài Thanh cũng
khẳng định được vị trí của Xuân Diệu trong văn đàn thi ca:
ngay lời văn Xuân Diệu cũng có vẻ chơi vơi, Xuân Diệu viết
tựa trẻ con học nói, hay nười ngoại quốc mới võ vẽ tiếng
Nam. Câu văn tuồng bỡ ngỡ ấy chính là Xuân Diệu hơn người. Dòng
tư tưởng quá sôi nổi, không thể đi theo đường có sẵn. Ý văn
xô đẩy, khiến câu văn phải lung lay.
Nhà phê bình Hoài Thanh
một lần nữa khẳng định vững chắc chỗ đứng của
Xuân Diệu trong phong trào thơ mới: Thơ Xuân Diệu chẳng những
diễn đạt cái tình cố hữu của nòi giống. Và chăng tinh thần
một nòi giống có cần gì phải bất di bất dịch. Sao lại bắt
ngày mai phải giống hệt ngày hôm qua? Thơ Xuân Diệu còn là một
nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ
này.
Nhà văn Vũ Ngọc Phan
nhận xét về thơ Xuân Diệu: Bây giờ người ta đã hiểu thơ Xuân
Diệu. Người ta thấy thơ Xuân Diệu đằm thắm, nồng nàn nhất
trong tất cả thơ mới. Cả ý lẫn lời đều tha thiết, làm cho người
thanh niên ngây ngất.
_ Thời kì này xuất
hiện nhà thơ Nguyễn Bính: nhà thơ chân quê
_ Huy Cận: dồn cả cái
buồn thời đại vào thơ... (Hoài Thanh)
3.
Thời kì 1940- 1942:
_ Do đại chiến thế
giới lần hai, xã hội Việt Nam bước vào những năm khủng hoảng
tột độ. Văn học công khai diễn ra hỗn loạn. Cái Tôi trong thơ
mới rút đến sợi tơ cuối cùng. Mỗi nhà thơ thoát li một cách,
và càng thoát li lại càng lạc lối. Từ 1940 về sau thơ mới càng
đi xa con đường đấu tranh cách mạng.
_ Thơ mới lắm xu hướng,
nhiều màu sắc đều là nhiều hình thức khác nhau của sự khủng
hoảng.
+
Nhóm Dạ Ðài: Vũ Hoàng Chương, Trần Dần, Ðinh Hùng
+
Nhóm Xuân Thu Nhã Tập: một lối thơ khó hiểu (Hũ nút, tắc tị),
gồm các thành viên: nhà thơ Nguyễn Xuân Sách, nhạc sĩ Nguyễn Xuân
Khoát, Nguyễn Ðỗ Cung, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Lương Ngọc, Ðoàn
Phú Tứ
+
Xu hướng thoát li siêu thoát triết lí thần bí tiêu biểu là Huy
Cận với Vũ trụ ca, Kinh cầu tự, Chế Lan Viên với Vầng sao
III. NGHỆ THUẬT CỦA PHONG TRÀO THƠ MỚI LÃNG MẠN |
1.
Kế thừa truyền thống thơ cổ điển:
_ Kế thừa truyền
thống thơ Ðường: bằng , trắc, đối ý, đối chữ. Ðặc biệt
kế thừa lối thơ Cổ phong.
_ Thể thơ lục bát được
nâng niu. Nhà thơ Huy Cận, Nguyễn Bính mang đến cho lục bát một
khuôn khổ mới
2. Sự
cách tân:
_ Cách tân về gieo vần
+
Loại vần liên tiếp:
Sông Hồng ôm ấp nóc nhà tranh
Trên con đường viền
trắng mép đồi xanh...
+
Vần ôm nhau:
Lặng lẽ trên đường lá rụng mưa bay.
Như khêu gợi
nỗi nhớ nhung thương tiếc
Những cảnh với
những người đã chết
Tự bao giờ còn
phảng phất đâu đây
+
Vần gián cách:
Gió man mác bờ tre rung tiếng sẻ
Trời hồng hồng
đáy nước lắng son mây
Làn khói xám từ
nóc nhà lặng lẽ
Vươn mình lên như
tỉnh giấc mê say
+
Vần hỗn hợp
+
Vần lưng:
Buồn gieo theo gió veo hồ
Ðèo cao quán
chật bến đò lau thưa
_ Sự cách tân về nhạc điệu:
+
Cách phối âm đặc biệt là phụ âm vang: âm a, an, ang, ưng, ...
+
Thơ mới thường nghiêng về thanh bằng
+
Thơ mới vận dụng lối ngắt nhưng linh hoạt, độc đáo 4/1/2:
Ðàn ghê như nước/lạnh/trời
ơi! (Nguyệt cầm-Xuân Diệu)
3. Các nhà thơ mới
vận dụng thủ pháp tu từ:
_ Giàu hình tượng,
gợi cảm.
_ Lối nhân cách hóa.
_ Lối ví von.
4. Những phong cách trong phương pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa:
Tuy
cùng chung một phương pháp sáng tác song các nhà thơ mới mỗi người
có một phong cách sáng tác khác nhau.