RỪNG XÀ NU
Nguyễn Trung Thành

Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai lần, hoặc buổi sáng sớm và và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẫm tối, hoặc nửa đêm và trở gà gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một TRẬN BÃO. CHỖ VẾT THƯƠNG, NGỰA ỨA RA, TRÀN TRỀ, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặ quyện lại thành từng cục máu lớn.
Trong rừng ít có lọai cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng có ít lọai cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực NGƯỜI LẠI BỊ ĐẠI BÁC CHẶT ĐỨT LÀM ĐÔI.
NHỮNG CÂY đó, nhựa còn trong, chất dầu còn lõang, vết thương không lành được, cứ lóet mãi ra, năm mươi hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá xum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Ðạn đại bác không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã... Cứ thế, hai ba năm nay, rừng xà nu uỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho dân làng...
Ðứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngòai những đồi xà nu nối tiếp, tới chân trời...

Ba năm đi lực lượng, bữa nay Tnú mới có dịp ghé về thăm làng. Thằng bé Heng gặp ở con nước lớn dẫn anh về. Ngày anh đi nó mới đứng đến ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ mới đeo cái xà-lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Bây giờ nó mang một khẩu súng trường mát, dẫn anh đi. Vẫn là con đường cũ, qua cái nà bắp đã trồng sắn và cây pom-chu vắt lên hai cái dốc đứng sững đã được cắt ra từng bực, chui qua một rừng lách rậm, ngày mưa thì vô số vắt lá rồi đến cái làng nhỏ của anh...

......Bữa cơm tối ở nhà cụ Mết, ngòai món canh tàu môn bạc hà nấu trong ống nứa, còn có thêm mấy con cá chua. Ðó là món đặc biệt cụ Mết đãi người đi xa về. Tnú mở ống lương khô, xúc cho ông cụ một muỗng muối. Ông cụ bảo:
- Tau cũng còn nửa lon muối của huyện thưởng cho con Dít kỳ nó đi đại hội chiến sĩ thi đua, nó về chia đều cho mỗi bếp một phần. Nhưng cái đó để dành cho người đau. Còn cái này mày cho thì tau ăn.
Ông cụ không nêm muối vào canh. Ông chia cho mỗi người mấy hạt, họ ăn sống từng hạt, ngậm rất lâu trong miệng để nghe chất mặn đậm đà tan dần. Cơm gạo trắng ghế rất nhiều củ pom- chu. Ông cụ bưng chén cơm nói như thanh minh:
- Năm nay làng không đói. Gạo đủ ăn, tới mùa suốt. Nhưng phải để dành, dự trữ mỗi bếp cho được ba năm. Mày đi cách mạng, người chỉ huy cũng dạy mày rồi, đánh thằng Mỹ phải đánh dài.
Rồi đột ngột, ông cụ hỏi;
- Mười ngón tay mày vẫn cụt thế à? Không mọc ra được nữa à...ừ...
Ông cụ đặt chén cơm xuống, giận dữ:
- Nhưng làng biết rồi chớ? Ðược. Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được. Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đấy. Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên. Ðố nó giết hết rừng xà nu này!..Kìa, ăn đi chớ! Gạo người Strá mình làm ra ngon nhất rừng núi đấy, con ạ.....
........Cơm nước xong, từ phía nhà ưng có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài lại ba tiếng. Dân làng lũ lượt kéo tới nhà cụ Mết. Các cô gái dụi tắt đuốc ở cầu thang trước khi bước vào nhà. Cũng có người, các bà cụ, cầm cả cây đuốc còn cháy rực đi thẳng vào, soi lên mặt Tnú, nhìn đi nhìn lại thật kỹ rồi ném bó đuốc vào bếp, lửa bốc lên, cháy giần giận. Các ông cụ thì chưa biết lên cầu thang đã nói oang oang:
- Thằng Tnú đâu rồi? Cho nó ăn no rồi chớ, ông Mết?
Có tiếng một bà già:
- Bọn đàn ông này, xê ra một chút cho con Dít nó ngồi với chớ. Dít ơi! ngồi đây con.!
Tnú ngửng nhìn lên, Dít đã ngồi sụp xuống trước mặt anh, hai chân xếp về một bên, đưa tay kéo tấm váy che kín cả gót chân. Tnú bất chợt nghe một luồng lạnh rân rân ở mặt và ở ngực. Mai! Trước mắt anh là Mai đấy. Anh không ngờ Dít lớn lên lại giống Mai đến thế. Cái mũi hơi tròn của Dít ngày nay đã thẳng và nhỏ lại, hai hàng lông mày đậm đến che tối cả đôi mắt mở to, bình thản, trong suốt. Dít nhìn Tnú bằng đôi mắt ấy rất lâu, trong khi bốn, năm, đứa bé, đứa nào cũng tranh chỗ ngồi gần chị Dít. Rồi chị hỏi Tnú, giọng hơi lạnh lùng:
- Ðồng chí về có giấy không?
Tnú không hiểu:
- Giấy gì?
- Giấy cấp trên cho nghỉ phép đó. Không có giấy trên về thì không đưọc. Uỷ ban phải bắt thôi.
Tnú cười ồ. Anh định đùa, bảo nhớ làng quá trốn về thăm làng một bữa, nhưng nhìn đôi mắt nghiêm khắc của Dít và nghe cái im lặng chờ đợi chung quanh, anh mở túi áo, lấy một mảnh giấy nhỏ đưa cho chị.
- Báo cáo đồng chí chính trị viên xã đội...
Dít cầm tờ giấy, soi lên ánh lửa. Hàng chục cái đầu chụm lại, mấy đứa bé lắp bắp đánh vần. Dít đọc rất lâu, đọc đi đọc lại đến ba lần. Cụ Mết hỏi:
- Ðúng chớ? Nó có phép chớ?
Dít đưa trả lại cho Tnú. Bây giờ chị mới cười:
- Ðúng rồi, có chữ ký người chỉ huy. Sao anh về có một đêm thôi?
Rồi chị trả lời:
- Thôi cũng được, về một đêm cho làng thấy mặt là được rồi. Bọn em miệng đứa nào cũng nhắc anh mãi.
Tiếng cười nói im đi một lúc bây giờ lại rộn lên chật cả căn nhà nhỏ
- Có chữ ký của người chỉ huy đó nghe!.
- Tốt lắm rồi!
- Một đêm thôi, mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá!
Tiếng ông cụ Mết ồ ồ át tất cả:
- Hà hà....được!
Ông cụ đẩy hai, ba đứa bé ra, bước tới ngồi xuống trước bếp lửa, cạnh Tnú. Ông cụ gõ ống điếu lên đầu ông táo, bẻ một que nứa nhỏ ở sạp, cẩn thận soi cho hết tàn thuốc trong ống điếu, rồi ngửng lên, nhìn quanh một lượt. Mọi người đã ngồi đâu vào đấy và lắng chờ. Ông cụ bắt đầu nói.
Bên ngòai lấm tấm một trận mưa đêm, rì rào như gió nhẹ. Ông cụ không cất cao giọng, tiếng nói rất trầm:
- Ông già bà già thì biết rồi. Thanh niên có đứa biết, có đứa chưa biết. Còn lũ con nít thì chưa biết - Ông cụ trừng mắt nhìn lũ trẻ, chúng nó cảm thấy cái nghiêm trang trong lời ông già, đứa nào đứa nấy ngồi im lặng thin thít, dán mắt vào miệng ông cụ - Tnú, anh Tnú của chúng mày về rồi đó - Ông cụ đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú - Anh Tnú mà tao đã kể cho chúng mày nghe bao nhiêu lần rồi đó. Ðấy, nó đấy, nó đi Gỉai phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm, cấo trên cho về một đêm, có chữ ký người chỉ huy, chị bí thư coi giấy rồi. Nó đấy! Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô-man này nuôi nó. Ðời nó khổ, nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta. Ðêm nay tau kể chuyện nó cho cả làng nghe để mừng nó về thăm làng. Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe....

(Cụ Mết kể lại chuyện cũ, lúc Tnú và Mai còn bé, nhưng đã góp phần tích cực vào việc nuôi giấu cán bộ ở trong rừng).

.....Anh cán bộ ở trong rừng lúc bấy giờ là anh Quyết. Từ ngày thằng Mỹ- Diệm tới rừng núi này, không bữa nào nó không đi lùng, không đêm nào chó của nó và súng của nó không sủa vang cả rừng. Nhưng dân làng Xô-man vẫn tự hào: năm năm chưa hề có một cán bộ bị giặc bắt hay giết trong rừng làng này. Lúc đầu thanh niên đi nuôi và gác cho cán bộ. Thằng Mỹ- Diệm biết đuợc, nó bắt thanh niên. Nó treo cổ anh Xút trên cây vả đầu làng.
- Ai nuôi Cộng sản thì coi đó!
Rồi nó cấm thanh niên đi rừng. Bà già ông già thay thanh niên đi nuôi cán bộ. Nó lại biết được. Nó giết bà Nhan, chặt đầu cột tóc treo đầu súng.
Sau cùng đến lũ trẻ thay ông già, bà già. Trong đám đó, hăng nhất có Tnú và Mai. Hễ Tnú đi rẫy thì Mai đi với cán bộ. Hễ Mai ở nhà giữ con Dít cho mẹ thì Tnú đi. Cũng có bữa cả hai đứa cùng đi. Chúng ở lại luôn ngòai rừng ban đêm. Ðể cán bộ ngủ mmột mình ngòai rừng một đêm, bụng dạ không yên được. Lỡ giặc lùng, ai dẫn cán bộ chạy. Anh Quyết hỏi:
- Các em không sợ giặc bắt à?. Nó giết như anh Xút, bà Nhan đó.
Tnú đang nằm trong lòng anh Quyết, ngồi dậy, tung cái đồ ra:
- Cụ Mết nói: Cán bộ là Ðảng. Ðảng còn, núi nước này còn.
Trong rừng, anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ. Anh chẻ nứa ra, đập giập ra, ghép lại thành mấy tấm bảng to bằng ba bàn tay. Ba anh em đốt khói xà nu xông bảng nứa đen kịt rồi lấy nhựa cây luông-tờ- ngheo phất lên một lớp đầy, rửa nước cũng không phai được. Tnú đi ba ngày đường tới núi Ngọc Linh mang về một xà-lét đầy đá trắng làm phấn. Mai học giỏi hơn Tnú, ba tháng đọc được chữ, viết được cái ý trong bụng mình muốn, sáu tháng làm được tóan hai con số. Tnú học chậm hơn, mà lại hay nổi nóng. Học tới chữ i dài, nó lại quên mất chữ o thêm cái móc thì đọc là chữ ơ. Có lần thua Mai, nó đập bể cả cái bảng nứa trước mặt Mai và anh Quyết, bỏ ra suối ngồi một mình suốt ngày. Anh Quyết ra dỗ, nó không nói. Mai ra dỗ, nó đòi đánh Mai. Mai cũng ngồi lì đó với nó.
- Tnú koong eè, tui cũng không về. Về đi, anh Tnú. Mai làm cái bảng khác cho anh rồi.
Nó cầm một hòn đá, tự đập vào đầu, chảy máu ròng ròng. Anh Quyết phải băng lại cho nó. Ðêm đó, anh ôm nó trong hốc đá. Anh rủ rỉ:
- Sau này, nếu Mỹ- Diệm giết anh, Tnú phải làm cán bộ thay anh. Không học chữ sao làm được cán bộ giỏi.
Tnú giả ngủ không nghe. Nó lén chùi nước mắt giàn giụa. Sáng hôm sau, nó gọi Mai ra sau hốc đá:
- Mai nói cho tôi chữ o có cái móc là chữ chi đi. Còn chữ chi đứng sau chữ đó nữa, chữ chi có cái bụng to đó.
Mai quay mặt đi, không dám cười. Nó viết một chữ có cái bụng to lên tấm bảng nó mới làm cho Tnú. Nó cố nói nhỏ nhưng giọng vẫn lanh lãnh:
- Anh nhớ giỏi lắm chữ bê đó.
- ừ, bê...bê...đầu tui ngu quá!
Tnú hay quên chữ, nhưng đi đường núi, thì đầu nó sáng lạ lùng. Nó liên lạc cho anh Quyết từ xã lên huyện. Không bao giờ nó đi đường mòn. Giặc vây các ngả đường, nó leo lên một cây cao nhìn quanh một lượt rồi xé rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây. Qua sông nó không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, vượt lên trên mặt nước, cỡi lên thác băng băng như một con cá kình. Nó nói:
- Qua chỗ nước êm thằng Mỹ- Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ.
Nhưng lần đó, Tnú tới một sông Ðắc Năng, vừa cuốn cái thư của anh Quyết gửi về huyện trong một cuộn lá dong, ngậm vào miệng định vượt thác, thì họng súng của giặc phục kích chĩa vào tai lạnh ngắt. Tnú chỉ kịp nuốt luôn cái thư.

(Tnú bị giặc bắt và bị tra tấn dã man. Ba năm sau, Tnú vượt ngục trở về làng. Anh Quyết đã bị thương nặng trong một trận phục kích. Trước lúc hy sinh, anh viết thư động viên dân làng Xô-man. Nghe lời anh, mọi người chuẩn bị chiến đấu)

..... Tin làng Xô-man mài giáo đến tai bọn giặc ở đồn Bắc Hà. Giữa mùa suốt lúa, chúng kéo một tiểu đội, vừa đúng lúc đứa con trai đầu lòng của Mai và Tnú ra đời. Cũng thằng chỉ huy năm trước, thằng Dục. Nó đội mũ đỏ màu máu. Nó gầm lên:
- Lại thằng Tnú chứ không ai hết. Con cọp đó mà không giết sớm, nay nó làm lọan rừng núi này rồi.
Cụ Mết và Tnú dẫn thanh niên lánh vào rừng. Họ không đi đâu xa, chỉ lẩn quẩn ở các gốc cây, hốc đá quanh làng, bám theo giặc. Chúng nó đóng lại trong làng bốn đêm. Ngọn roi của nó không từ một ai. Tiếng kêu khóc dậy cả làng. Thằng Dục lăm lăm khẩu súng lục:
- Ðứa nào ra khỏi làng bắt được bắn chết ngay tại chỗ.
Không ai lọt ra được. Chỉ có con Dít nhỏ, lanh lẹn, cứ sẩm tối lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng cho cụ Mết, Tnú và thanh niên. Tảng sáng ngày thứ tư thì chúng bắt được con bé khi chúng ở ngòai rừng về. Chúng để con bé đứng giữa sân, lên đạn tôm-xông rồi từ từ bắn từng viên một, không bắn trúng, đạn chỉ sượt qua tai, sém tóc, cày đất quanh hai chân nhỏ của Dít. Váy nó rách tọat từng mảng. Nó khóc thét nhưng rồi đến viên thứ muời nó chùi nước mắt, từ đó im bặt. Nó đứng lặng giữa bọ lính, cứ mỗi viên đạn nổ, cái thân hình mãnh dẻ của nó lại quật lên một cái nhưng đôi mắt nó thì vẫn nhìn bọn giặc bình thản như đôi mắt chị bí thư bây giờ vậy.
Không làm gì được con bé, thằng Dục dùng đến ngón cuối cùng. Nó bắt Mai.
- Bắt được con cọp cái và cọp con, tấy sẽ dụ được cọp đực trở về.
Tnú nghe rõ câu nói đó của thằng Dục. Anh nấp ở gốc cây cạnh máng nước đầu làng. Từ chỗ ấy nhìn thấy sân làng rõ mồn một. Hai bàn tay anh bíu chặt lấy gốc cây khi bọn lính, mười thằng, dẫn Mai ra giữa sân. Mai địu con trên lưng, thằng bé chưa được một tháng. Ai cũng bảo nó giống Tnú lạ lùng. Không đi Kông Tum mua vải được, Tnú phải xé đôi tấm dồ của mình ra làm tấm chòang cho Mai địu con. Thằng bé nằm trong tấm chòang ấy ngủ say trên lưng mẹ.
Thằng Dục hỏi:
- Chồng mày ở đâu, con mọi Cộng sản kia?
Mai xốc lại đứa con trên lưng, ngửng đôi mắt rất lớn nhìn thằng Dục.
- Mày câm à, con chó cái! - Nó quát bọn lính- Ðứng ỳ ra đó à!.
Một thằng lính to béo nhất liếc mắt nhìn thằng Dục cầm một cây sắt dài bước tới cạnh Mai. Nó lè lưỡi liếm quanh môi một lượt, rồi chậm rãi giơ cây sắt lên. Mai thét lên một tiếng. Chị vội tháo tấm địu, vừa kịp lật đứa con ra phía bụng lúc cây sắt giáng xuống trên lưng.
- Thằng Tnú ở đâu, hả?
Cây sắt thứ hai đập vào trước ngực Mai, chị lật đứa bé ra sau lưng. Nó lại đánh sau lưng, chị lật thằng bé ra trước ngực. Trận mưa cây sắt mỗi lúc một dồn dập. Không nghe tiếng thét của Mai nữa. Chỉ nghe đứa bé khóc ré lên một tiếng rồi im bặt. Chỉ còn tiếng cây sắt nện xuống hừ hự.
Tnú bỏ gốc cây của anh. Ðó là một cây vả. Anh đã bứt dứt hàng chục trái vả mà không hay. Anh chồm dậy. Một bàn tay níu vai anh lại. Tiếng cụ Mết nặng trịch:
- Không được. Tnú! Ðể tau!
Tnú gạt tay ông cụ ra. Ông cụ nhắc lại:
- Tnú!
TNÚ QUAY LẠI. ¤NG CỤ KHÔNG NHÌN RA TNÚ NỮA.
CHỖ HAI CON mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn. Ông cụ buông vai Tnú ra.
Một tiếng hét dữ dội. Tnú đã nhảy xổ vào giũa bọn lính. Anh không biết đã làm gì. Chỉ thấy thằng lính giặc to béo nằm ngửa ra giữa sân, thằng Dục tháo chạy vào nhà ưng. Tiếng lên đạn lách cách quanh anh. Rồi Mai ôm đứa con chúi vào ngực anh. Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai.
- Ðồ ăn thịt người, tau đây. Tnú đây....
Tnú không cứu sống được Mai.
-
, Tnú không cứu sống được mẹ con Mai
Tiếng ông cụ Mết vẫn trầm và nặng. Ông cụ vụng về trở tay lau một giọt nước mắt. Bỗng nhiên ông cụ nói to lên:
- Tnú không cứu được vợ con. Tối đó Mai chết. Còn đứa con thì đã chết rồi. Thằng lính to béo đánh một cây sắt vào ngang bụng nó, lúc mẹ nó ngã xuống, không kịp che cho nó. Nhớ không, Tnú, mày cũng không cứu sống được vợ con mày. Còn mày thì chúng nó bắt mày, trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói mày lại. Còn tau thì lúc đó tau đứng sau gốc cây vả. Tau thấy chúng nó trói mày bằng dây rừng. Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không. Tau không ra, tau quay đi vào rừng, tau đi tìm bọn thanh niên. Bọn thanh niên thì cũng đã đi vào rừng, chúng nó đi tìm giáo mác. Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bây còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!...
Chúng nó trói chặt Tnú bằng dây rừng, khiêng ném vào góc nhà ưng rồi kéo nhau đi ăn thịt con heo của anh Brôi.
Tnú nằm trong góc nhà. Bóng tối đã dầy đặc. Anh suy nghĩ, ngạc nhiên tự thấy mình rất bình thản:
" Ðứa con chết rồi, Mai chắc cũng chết rồi. Tnú cũng sắp chết. Ai sẽ làm cán bộ? Ðến khi có lệnh Ðảng cho đánh, ai sẽ làm cán bộ lãnh đạo dân làng Xô- man đánh giặc. Cụ Mết đã già. Ðược, còn có bọn thanh niên. Rồi con Dít sẽ lớn lên. Con bé vững hơn cả chị nó. Không sao...chỉ tiếc Tnú không sống được tới ngày cầm vũ khí đứng dậy với dân làng..."
Thằng Dục không giết Tnú ngay. Nó đốt một đống lửa lớn ở nhà ưng, lùa tất cả dân làng tới, cởi trói cho Tnú, rồi nói với mọi người:
- Nghe nói chúng mày đã mài rựa, mài giáo cả rồi, phải không? Ðược, đứa nào muốn cầm rựa, cầm giáo thì coi bàn tay của thằng Tnú đây.
Nó hất hàm ra lịnh cho thằng lính to béo nhất. Chúng nó đã chuẩn bị sẵn cả. Thằng lính mở túi-se lấy ra một nhúm giẻ. Giẻ đã tẩm dầu xà nu. Nó quấn giẻ lên mười đầu ngón tay Tnú. Rồi nó cầm lấy một cây lửa. Nhưng thằng Dục bảo:
- Ðể đó, cho tau!
Nó giật lấy cây lửa
Tnú không kêu lên một tiếng nào. Anh trợn mắt nhìn thằng Dục. Nó cười sằng sặc. Nó gí cây lửa lại sát mặt anh:
- Coi kỹ cái mặt thằng Cộng sản muốn cầm vũ khí này xem sao nào. Số kiếp chúng mày không phải số kiếp cầm giáo mác. Bỏ cái mộng cầm giáo mác đi, nghe không.
Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón. Không, có gì đượm bằng nhựa xà nu. Lửa bắt rất nhanh. Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc.
Tnú nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, trừng trừng.
Trời ơi! Cha mẹ ơi! Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi. Răng ANH ĐÃ CẮN NÁT MÔI ANH RỒI. ANH KHÔNG KÊU LÊN.
ANH QUYẾT nói:" Người Cộng sản không thèm kêu van..."Tnú không thèm, không thèm kêu van. Nhưng trời ơi! Cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi! Cháy! Không, Tnú sẽ không kêu! Không!
Tiếng cười giần giật của thằng Dục. Các cụ già chồm dậy. Bọn lính gạt ra. Tiếng kêu ré của đồng bào. Tiếng chân ai rầm rập quanh nhà ưng. Ai thế?
Tnú thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi. Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn. Tiếng "Giết". Tiếng chân người đạp trên sàn nhà ưng ào ào. Tiếng bọn lính kêu thất thanh. Tiếng cụ Mết ồ ồ: "Chém! chém hết!". Cụ Mết đúng rồi, cụ Mết đã đứng đấy, lưỡi mác dài trong tay. Thằng Dục nằm dưới lưỡi mác của cụ Mết. Và thanh niên, tất cả thanh niên trong làng, mỗi người một cây rựa sáng lóang, những cây rựa mài bằng đá Tnú mang từ đỉnh núi Ngọc Linh về...
Tiếng anh Brôi nói, trầm tĩnh:
- Tnú! Tnú ! Tỉnh dậy chưa? Ðây này, chúng tôi giết hết rồi. Cả mười đứa, đây này! Bằng giáo, bằng mác. Ðây này!
Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú. Nhưng đống lửa xà nu lớn giữa nhà vẫn đỏ. Xác mười tên lính giặc ngổn ngang quanh đống lửa đỏ.
Cụ Mết chống giáo xuống sàn nhà, tiếng nói vang vang:
- Thế là bắt đầu rồi. Ðốt lửa lên! Tất cả người già, người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông! Ðốt lửa lên!.
Tiếng chiêng nổi lên...
Ðứng trên đồi xà nu gần con nước lớn, suốt đêm nghe cả rừng Xô-man ào ào rung động. Và lửa cháy khắp rừng....

Tnú lại ra đi. Cụ Mết và Dít đưa anh ra đến cửa rừng xà nu gần con nước lớn. Trận đại bác đêm qua đã đánh ngã bốn năm cây xà nu to. Nhựa ứa ra ở những vết thương đang đọng lại, lóng lánh nắng hè. Quanh đó vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhý khỏi mặt đất., nhọn hoắc như những mũi lê.
Ba người đứng ở đó nhìn ra xa. Ðến hút tầm mắt cũng không thấy gì khác ngòai những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.

(Theo Truyện ngắn Việt nam 1945- 1985
NXB Gíao dục, 1985)