Ai ở xa về, có việc vào nhà
thống lý (1) Pá Tra thường trông thấy có một
cô gái ngồi quay sợi gai bên tầng đá trước
cửa, cạnh tầu ngựa.
Lúc nào cũng vậy, dù
quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay
đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng
cúi mặt, mặt buồn rười rượi. Người ta nói:
nhà Pá Tra làm thống lý, ăn của dân nhiều ,
đồn Tây lại cho muối về bán, giầu lắm, nhà
có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuộc phiện
nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ
phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Nhưng
rồi hỏi ra mới rõ cô ấy không phải con gái
thống lý: cô ấy là vợ A Sử, con trai thống
lý.
Mỵ về làm dâu nhà Pá
Tra đã mấy năm. Từ năm nào, không nhớ, cũng
không ai nhớ. Những người nghèo ở Hồng Ngài
thì vẫn còn kể lại câu chuyện Mỵ về làm
người nhà quan thống lý.
(1) Tổ chức cai trị của
đế quốc Pháp trước đặt chức thống lý cho
bọn chức việc người Mông, cũng như chánh
thổng, lý trưởng ở xuôi, phìa ở làng Thái.
Ngày xưa bố Mỵ lấy mẹ
Mỵ không đủ tiền cưới, phải đến vay nhà
thống lý, bố của thống lý Pá Tra bây giờ.
Mỗi năm đem nộp lãi cho nhà chủ nợ một
nương ngô. Ðến tận khi hai vợ chồng về già
mà cũng chưa xong nợ. Người vợ chết, cũng
chưa trả hết nợ.
Cho tới năm ấy Mỵ đã
lớn, Mỵ là con gái đầu lòng. Thống lý đến
bảo bố Mỵ: - Cho tao đứa con gái này về làm
dâu thì tao xoá hết nợ tho.
Ông lão nghĩ năm nào cũng phải trả một
nương ngô cho người ta, tiếc ngô, nhưng cũng
lại thương con quá. Ông chưa biết nói thế
nào thì Mỵ bảo bố rằng:
- Con đã biết cuốc nương làm ngô, con làm
nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán
con cho nhà giàu.
Tết năm ấy, tết vui
chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm
đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái,
bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó
sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình
yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách.
Trai đứng nhắn cả chân vách đầu buồng Mỵ.
Một đêm, khuya Mỵ nghe tiếng gõ vách. Tiếng
gõ vách hẹn của người yêu. Mỵ hồi hộp lặng
lẽ quờ tay lên, gặp hai ngón tay lách vào khe
gỗ. Một ngón đeo nhẫn. Người yêu Mỵ đeo
nhẫn ngón tay ấy. Mỵ nhấc tấm vách gỗ. Một
bàn tay bắt Mỵ bước ra.
Mỵ vừa bước ra, lập tức có mấy người
choàng đến, nhét áo vào miệng Mỵ rồi bịt
mắt cõng Mỵ đi.
Sáng hôm sau, Mỵ mới
biết mình đang ngồi trong nhà thống lý. Họ
nhót Mỵ vào buồng.
Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma
rập rờn nhảy múa.
A Sử đến nhà bố Mỵ.
A Sử nói:
- Tôi đã đem con gái bố về cúng trình ma
nhà tôi. Bây giờ tôi đến cho bố biết. Tiền
bạc để cưới, bố tôi bảo đã đưa cả cho
bố rồi (1)
Rồi A Sử về. Ông lão nhớ câu nói của thống
lý dạo trước; cho con gái về nhà thống lý
thì trừ được nợ. Thế là cha mẹ ăn bạc nhà
giàu kiếp trước, bây giờ người ta bắt con
trừ nự. Không làm thế nào khác được rồi.
Có đến mấy tháng, đêm nào Mỵ cũng khóc.
Một hôm, Mỵ trốn về
nhà, hai tròng mắt còn đỏ hoe. Trông thấy
bố, Mỵ quì, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố
Mỵ cũng khóc, đoán biết lòng con gái:
- Mày về chào lậy tao để mày đi chết đấy
à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn còn quan lại
bắt trả nợ. Mày chết rồi, không lấy ai làm
nương ngô, trả được nợ, tao thì ốm yếu
quá rồi. Không được, con ơi!
(1) người Mông có tục
cướp vợ trai gái yêu nhau, bằng lòng nhau (có
khi chỉ anh con trai muốn lấy người con gái
giữa đêm cùng một số bạn trai khác, đến
nhà hiếm). Người con trai giữa đêm cùng một
số bạn trai khác, đến nhà người yêu, bí
mật "cướp" đi. Hôm sau, người trai
trở lại báo tin cho bố người gái ấy là tôi
đã cướp được con gái ông làm vợ. Thế là
phong tục bắt bố phải nhận lời. Cưới lối
"cướp" như thế, người tai mất rất
ít tiền.
Thường mùa xuân ăn Tết, con trai hay đi
"cướp" vợ. Ðó là phong tục vui,
thanh niên rất thích. Bây giờ vẫn thường xảy
ra.
Mỵ chỉ bưng mặt khóc.
Mỵ ném nắm lá ngón(1) xuống đất. Nắm lá
ngón Mỵ đã đi tìm hai trong rừng. Mỵ vẫn
giấu trong áo. Thế là Mỵ không đành lòng
chết. Mỵ chết thì bố Mỵ còn khổ hơn bao
nhiêu lần bây giờ.
Mỵ lại trở lại nhà thống lý.
Lần lần, mấy năm qua,
mấy năm sau, bố Mỵ chết. Nhưng Mỵ cũng không
còn nghĩ đến Mỵ có thể ăn lá ngón tự tử.
ở lâu trong cái khổ, Mỵ cũng quen khổ rồi.
Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu,
mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn
cỏ, biết đi làm mà thôi.
Mỵ cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, lúc nào
cũng nhớ lại những việc giống nhau, mỗi năm
một mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: tết
xong lên núi hái thuốc phiện; giữa năm thì
giặt đay; đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù
đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một
bó đay trong cách tay để tước sợi. Bao giờ
cũng thế, suốt năm, suốt đời thế. Con ngựa,
con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng
gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này
vùi vào việc cả đêm cả ngày.
Mỗi ngày Mỵ càng không
nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
ở
buồng Mỵ nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ
một lỗ vuông ấy mà trông ra. Ðến bao giờ
chết thì thôi.
Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa
gặt xong, ngô lúa đã xếp yên các nhà kho.
Trẻ em đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đốt những
những lều quanh nương để
sưởi lửa. ở Hồng Ngài, người ta thành lệ,
cứ ăn tết thì gặt hái vừa đoạn, không kể
ngày tháng. ¡n tết thì gặt hái vừa đoạn,
không kể ngày tháng. ¡n tết thế cho kịp mưa
xuân xuống, đi vỡ nương mới.
(1) một thứ thuốc độc
Hồng Ngài năm ấy ăn tết
giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, rét
càng dữ.
Nhưng trong các làng Mông Ðỏ, những chiếc
váy hoa đã được phơi ra mỏm đá, xoè như
con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện nở trắng
lại nở màu đỏ hau, đỏ thậm, rồi nở mầu
tìm man mát. Ðám trẻ đợi tết, chơi quay,
cười ầm trên sân chơi trước nhà.
Ngoài đầu núi, đã có tiếng ai thổi sáo rủ
bạn đi chơi. Mỵ nghe tiếng sáo vọng lại,
thiết tha bồi hồi.
"Mày có con trai con gái
Mày đi nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu"
Tiếng chó sủa xa xa.
Những đêm tình mùa xuân đã tới.
ở mỗi đầu làng đều có một mỏm đất phẳng
làm sân chơi chung ngày tết. Trai gái, trẻ con
ra sân ấy tụ tập đánh pao, dánh quay, thổi
sáo, thổi kèn và nhảy.
Cả nhà thống lý ăn xong
bữa cơm tết cúng ma. Xung quanh chiêng đánh
ầm ỹ, người ốp đồng vẫn nhảy lên xuống,
rung bần bật. Vừa hết bữa cơm tiếp ngay cuộc
rượu bên bếp lửa.
Ngày tết, Mỵ cũng uống
rượu. Mỵ lén lấy hũ rượu, uống ực từng
bát. Rồi say, Mỵ lịm mặt đấy nhìn người
nhảy đồng, người hát. Nhưng lòng Mỵ đang
sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo
gọi bạn đầu làng. Ngày trước Mỵ thổi sáo
giỏi. Mùa xuân đến, Mỵ uống rượu bên bếp
và thổi sáo. Mỵ uốn chiếc lá trên môi, thổi
lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu
người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mỵ
hết núi này sang núi khác.
Rượu tan lúc nào. Người
về, người đi chơi đã vãn cả, Mỵ không
biết. Mỵ vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà.
Mãi sau Mỵ mới đứng dậy. Nhưng Mỵ không
bước ra đường. Mỵ từ từ vào buồng.
Chẳng năm nào A Sử cho Mỵ đi chơi hết.
Bấy giờ Mỵ ngồi xuống giường, trông ra cửa
sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Từ nay Mỵ
thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên
vui như những đêm Tết ngày trước. Mỵ trẻ,
Mỵ vẫn còn trẻ. Mỵ muốn đi chơi. Bao nhiêu
người có chồng cũng đi chơi Tết. Huống chi A
Sử với Mỵ không có lòng với nhau mà vẫn
phải ở với nhau. Nếu có nắm lá ngón trong tay
lúc này, Mỵ sẽ ăn cho chết ngay, chứ không
buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chì thấy nước
mặt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ
bay ngoài đường.
" Anh ném pao
Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi..."
A Sử vừa ở đâu về, lại
sửa soạn đi chơi. A Sử thay áo mới, khoác
thêm vòng bạc vào cổ rồi bịt cái khăn trằng
lên đầu. Có khi nó đi mấy ngày mấy đêm.
Nó còn đương rình bắt nhiều người con gái
nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mỵ nói.
Bây giờ Mỵ cũng không nói. Mỵ đến góc nhà,
lấy ông mỡ, sắn một miếng, bỏ thêm voà đĩa
đèn cho sáng.
Trong đầu Mỵ đang rập rờn tiếng sáo. Mỵ
muốn đi chơi. Mỵ cũng sắp đi chơi. Mỵ quấn
lại tóc. Mỵ với tay lấy cái váy hoa vắt phía
trong vách. A Sử sắp bước ra, bỗng quay lại,
lấy làm lạ. A Sử nhìn quanh thấy Mỵ rút thêm
cái áo.
A Sử hỏi:
- Mày muốn đi chơi à?
Mỵ không nói. A Sử cũng không hỏi thêm. A Sử
bước lại, nắm Mỵ, lấy thắt lưng trói tay
Mỵ. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trới
đứng Mỵ vào cột nhà. Tóc Mỹ xoã xuống. A
Sử quấn luôn tóc lên cột. Mỵ không cúi,
không nghiêng được đầu nữa. Trói xong. A Sử
thắt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi phẩy
tay tắt đèn, đi ra khép cửa buồng lại.
Trong bóng tối, Mỵ đứng
im như không biết mình đang bị trói. Hơi
rượu còn nồng nàn. Mỵ vẫn nghe thấy tiếng
sáo đưa Mỵ đi theo những cuộc chơi. "Em
không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người
nào, em bắt pao nào!" Mỵ vùng bước đi.
Nhưng chân đau không cựa được. Mỵ không
nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân
ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi
chân, nhai cỏ. Mỵ thổn thức nghĩ mình không
bằng con ngựa.
Chó sủa xa xa. Chừng đã
khuya. Lúc này, lúc trai đang đến gò vách
làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng
chơi. Mỵ nín khóc, Mỵ lại bồi hồi.
Cả đêm Mỵ phải trói đứng như thế. Lúc thì
khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức.
Lúc lại tràn trề tha thiết nhớ. Hơi rượu
toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sửa xa xa. Mỵ lúc
mê, lúc tình. Cho tới khi trời tang tảng rồi
không biết sáng từ bao giờ.
Mỵ bàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm âm trong
cái nhà gỗ rộng. Vách bên cũng im ắng. Không
nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn. Không
một tiếng động. Không biết bên buông quanh
đấy, các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có
còn ở nhà, không biết tất cả những người
đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được
đi chơi hay cũng đang phải trói như Mỵ. Mỵ
không thể biết.
Ðời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở
Hồng Ngài, một đời người chỉ biết đi theo
đuổi con ngựa của chồng. Mỵ chợt nhớ lại
câu chuyện người ta vẫn kể: đời trước, ở
nhà thống lý Pá Tra có người trói vợ trong
nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến,
vợ chết rồi. Mỵ sợ quá, Mỵ cựa quậy. Xem
mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp
chân bị dây chói xiết lại, đâu đứt từng
mảnh thịt.
Có tiếng xôn xao phía
ngoài. Rồi một đám đông vào nhà. Thống lý
Pá Tra xuống ngựa vứt cương cho "thị
sống" (một chức việc đi hầu thống lý
như người làm mõ thời trước) dắt ngựa vào
tàu. Nghe như bọn họ khiêng theo con lợn, hoặc
một người phải trói, vừa vứt huỵnh xuống
đất, cứ thở phò phò. A Sử chệnh choạng vào
buồng. áo rách toạch một mảnh vai. Cái khăn
xéo trắng loang lổ máu, xụp xuống quanh trán.
A Sử nằm lăn ra giường. Thống lý Pá Tra
bước vào. Theo sau thống lý, một lũ
"thống quán" (Một chức việc như phó
lý) "xéo phải" (như trưởng thôn) và
bọn thị sống vẫn thường ra vào hầu hạ, ăn
thịt uống rượu, hút thuốc phiện nhà thống
lý.
Có người bấy giờ mới nhìn thấy Mỵ phải
trói đứng trong cột. Nhưng cũng không ai để
ý. Họ xúm lại quanh giường A Sử.
Pá Tra, tay vẫn cầm cái roi ngựa, lại từ từ
đi ra. Mỵ nhắm mặt lại, không dám nhìn. Mỵ
chỉ nghe hình như có tiếng ông thống lý gọi
người ra ngoài. Mỵ hé nhìn ra, thấy chị dâu
bước tới. Người chị dâu ấy chưa già, nhưng
cái lưng quanh năm phải đeo thồ nặng quá,
đã còng rạp xuống. Người chị dâu đến cởi
chói cho Mỵ. Sợi dây gai bắp chân vừa lỏng
ra, Mỵ ngã sụp xuống. Chị dâu khẽ nói vào
tai Mỵ:
- Mỵ! đi hái thuốc cho chồng mày.
Mỵ quên cả đau đứng lên. Nhưng không nhích
chân lên được. Mỵ phải ôm vai chị dâu. hai
người khổ sở dìu nhau bước ra. Vào rừng tìm
lá thuốc, Mỵ nghe nói lại, mới biết A Sử đi
chơi bị đánh vỡ đầu.
Nửa đêm qua, A Sử vào làng tìm đến đám
tiếng sáo, tiếng khèn. Nhiều
chàng trai làng ấy vào các làng khác, chơi
quay, thổi sáo suốt ngày, chập tối vừa tan
xong chầu rượu trong nhà, bây giờ vẫn còn
chưa chịu tan về. Lúc A Sử và chúng bạn kéo
đến, không còn ai chơi trong nhà. Nhưng
người ra người vào còn dập dìu quanh ngõ.
A Sử đứng ngoài, tức lắm. Nó bàn với lũ
khác, doạ đánh bọn trai lạ bám quanh nhà,
khiến bọn A Sử bị vương không thể vào
được.
Bọn A Sử ném vào vách. Ông bố trong nhà ra
chửi. Vẫn ném. Ông lão vào trong cửa, bắn ra
hai phát súng. Thế là tan những đám hẹn.
Nhưng cũng chưa người trai nào vội về. Họ
tản vào các nhà quen trong xóm. Ðợi sáng mai
lại lên sân đánh pao với con gái trong xóm.
Bọn A Sử cũng không chịu để cánh kia yên.
Sáng sớm, khi họ vừa ra đầu ngõ, bọn A Sử
đã kéo đến gây sự. A Sử đi trước, nạm
vòng bạc rủ xuống tua chỉ xanh đỏ, chỉ riêng
con cái nhà quan trong làng mới được đeo. A
Sử hùng hổ bước ra. Bọn kia đứng dồn cả
lại, xôn xao.
- Lũ phá đám ta hôm qua đây rồi.
- A Phủ đâu! A phủ đánh chết nó đi!
Một người to lớn chạy vụt ra, vung tay ném con
quay thẳng vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng
vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên, A Phủ
đã xộc tới, nắm vòng cổ, kéo dập đầu
xuống, xé vai áo, đánh tới tấp. Người làng
nghe tiếng hò hét đổ ra. Bọn trai làng lạ
tản hết lên rừng. Mấy người đuổi đón đầu
A Phủ.
A Phủ bị bắt sống, trói
gô chân tay lại. Vừa lúc thồng s lý Pá Tra
tới. Chúng nó xọc ngang cái gậy, khiêng A Phủ
mang về ném xuống giữa nhà thống lý.
Mỵ đi hái được lá thuốc về, thấy trong nhà
càng đông hơn lúc nãy. Ngoài sân, dưới gốc
đào lại buộc thêm mấy con ngựa lạ.
Mỵ đi cửa sau vào, lé mặt nhìn thấy một
người to lớn quỳ trong góc nhà. Mỵ đoán
đấy là A Phủ.
Bọn chức việc cả vùng Hồng Ngài đến nhà
thống lý dự đám kiện.
Các lý dịch, quan làng thống quán, xéo phải,
đội mũ quấn khăn, xách gậy, cưỡi ngựa kéo
đến xử kiện và ăn cỗ.
Trong nhà thống lý đã bày ra năm bàn đèn.
Khói thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun
hút xanh như khói bếp. Cả những người chức
việc bên làng A Phủ cũng tới. Chỉ bọn trai
làng ấy phải ngồi khoanh tay cạnh A Phủ, vì
họ bị gọi sang hầu kiện. Bọn chức việc nằm
dài cả trên khay đèn.
Suốt từ trưa cho tới hết đêm, mấy chục
người hút. Trên nhất là thống lý Pá Tra.
Thống lý hút xong một đợt năm điếu, đến
người khác, lại người khác, cứ thế lần
lượt xuống tới bọn đi gọi người về dự
kiện.
Chỉ có đàn bà ngồi trong buồng và đi bên
ngoài dòm ngó đám xử kiện và A Phủ quỳ
chịu tội ở xó nhà, không được dự tiệc hút
ấy.
Một loạt người vừa hút xong, Pa Tra ngồi dậy,
vuốt ngược cái đầu trọc dài, kéo đuôi tóc
ra đằng trước, cất gọng lè nhè gọi:
- Thằng A Phủ ra đây.
A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng
xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa
lên thống lý rồi quay lại đánh A Phủ.
A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng
đá...
Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện
xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị
người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên,
môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người đánh,
kể, chửi , lại hút. Khói thuốc phiện ngào
ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại
ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ... Cứ như
thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng
tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.
Trong buồng bên cạnh, Mỵ
cũng thức suốt đêm, im lặng ngồi xoa thuốc
dấu cho A Sử. Lúc nào Mỵ mỏi quá, cựa mình,
những chỗ lằn trói trong người lại đau ê
ẩm. Mỵ lại gục đầu nằm thiếp. A Sử đạp
chân vào mặt Mỵ. Mỵ choàng thức, lại nhặt
nắm lá thuốc xoa đều đều trên lưng chồng.
Ngoài nhà vẫn rên lên từng cơn kéo thuốc
phiện, như những con mọt nghiến ghỗ kéo dài,
giữa tiếng người khóc, tiếng người kể lào
xào, và tiếng đấm đánh huỳnh huỵch.
Sáng hôm sau, đám kiện đã xong. Mấy người
chẳng biết từ bao giờ, ngủ
ngáy ngay bên khay đèn. Bọn xéo phải đang
bắc cái chảo đồng và xách ấm nước ra nấu
thêm lạng thuốc để hút ban ngày cho các quan
làng thật tình, các quan làng còn một tiệc
ăn cỗ nữa.
Thống lý mở tráp, lấy ra một trăm đồng bạc
hoa xoè bày lên mặt tráp, rồi nói:
- Thằng A Phủ kia, mày đành người thì làng
xử mày phải nộp vạ cho người phải mày đánh
là hai mươi đồng, nộp cho thống quán năm
đông, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi
gọi các quan làng về hầu kiện năm hào. Mày
phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm
qua tới nay. Lại mất con lợn hai mươi cân,
chốc nữa mổ để các quan làng ăn vạ mày. A
Phủ, mày đánh con quan làng, đáng lẽ làng
xử mày tội chết, nhưng làng tha cho mày
được sống mà nộp vạ. Cả tiền phạt, tiền
thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc
trắng. Mày không có trăm bạc thì tao cho mày
vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền trả thì
tao cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt
mày làm con trâu cho nhà tao. Ðời mày, đời
con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ
hết nợ tao mới thôi. A Phủ! Lại đây nhận
tiền quan cho vay.
A Phủ lê hai cái đầu
gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù. A Phủ cúi
sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra
đốt hương, lầm rầm khấn gọi mà về nhận
mặt người vay nợ. Pá Tra khấn xong, A Phủ
cũng nhặt xong bạc, nhưng chỉ nhặt làm phép
lên như thế rồi lại để ngay xuống mặt tráp.
Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp.
Con lợn vừa bắt về cho A Phủ thết làng ăn vạ
đã kêu eng éc ngoài sân. Ðếm tiền rồi, A
Phủ không phải quỳ, phải đánh nữa.
A Phủ đứng lên cầm con dao, chân đau bước
tập tễnh, cùng với trai làng ra chọc tiết làm
thịt lợn hầu làng.
Trong nhà, thuốc phiện vẫn hút rào rào.
Thế là từ đấy A Phủ
phải ở trừ nợ cho nhà quan thống lý. Ðốt
rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót,
bẫy hổ, chăn bò chăn ngựa, quanh năm một
thân một mình rong ruổi ngoài gò rừng. A Phủ
đương tuổi sức lực. Ði làm hay đi săn cái
gì cũng phăng phăng. Không còn có lúc nào
trở về làng bên. Nhưng A Phủ cũng chẳng muốn
trở về làm gì bên ấy.
A Phủ cũng không phải người bên ấy. Bố mẹ
đẻ A Phủ ở Hắng Bìa. Năm xưa, làng Hắn Bìa
phải một trận bệnh đậu mùa, nhiều trẻ con,
cả người lớn chết, có nơi chết cả nhà. Còn
sót lại có một mình A Phủ. Có người làng
đói bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc
của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ mới
mười một tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không
chịu ở cánh đồng thấp.
A Phủ trốn lên núi, lưu lạc đến Hồng Ngài.
Ði làm cho nhà người, lần nữa mùa này sang
mùa khác. Chẳng bao lâu A Phủ đã lớn, biết
đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi
và đi săn bò tót rất bạo.
A Phủ khoẻ, chạy nhanh như ngựa. Con gái trong
làng nhiều cô mê. Nhiều người nói:
"Ðứa nào được A Phủ cũng bằng được
con trâu tốt trong nhà.
Chẳng mấy lúc mà giàu". Người ta ao ước
đùa thế thôi chứ phép rượu cũng chẳng to
hơn phép làng, còn tục lệ cưới xin, mà A
Phủ không có bố mẹ, không có ruộng, không
có bạc, A Phủ không thể lấy nổi vợ.
Tuy nhiên, đang tuổi chơi, trong ngày tết
đến, A Phủ chẳng có quần áo mới như nhiều
trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng
bằng sợi dây đồng vía lằn trên cổ. A Phủ
cứ cùng trai làng đem sáo, khèn, đem con quay
và quả pao, quả yến đi tìm người yêu ở các
làng trong vùng.
Vì thế sinh sự đánh nhau ở Hồng Ngài.
Một năm kia, phải khi
đang đốt rừng. Hổ gấu từng đàn ra phá
nương, bắt mất nhiều bò ngựa. Nhà thống lý
lúc nào cũng đầy ngựa trong tàu trước cửa,
đầy lưng bò đứng chen chân trong cột cửa,
và dê, chó, lợn nằm quanh nhà. Ngày nào cũng
lũ lượt hàng mấy chục con đi nương ăn. Bây
giờ gặp khi rừng đói, mỗi lần bò ngựa đi
nương, A Phủ phải ở lại trong rừng.
A Phủ ở lều hàng tháng ngoài nương. Ðêm
đến, dồn bò ngựa về nằm chầu nhau ngủ quanh
lều.
Mấy ngày A Phủ mê mải đi bẫy dím, không
đếm được ngựa. Hôm ấy vào rừng thấy vết
chân hổ. A Phủ vội phóng ngựa chạy vờn quanh
đàn, dồn chúng quấn lại để đếm. A Phủ
đếm lại mấy lần. Thiếu một con bò. A Phủ
nhào vào rừng, lần theo lốt chân hổ, tìm
được con bò đã bị hổ ăn thịt, chỉ còn
lại một nửa mình nằm ngay dưới cây thông
cụt.
A Phủ nhặt mấy miếng thịt rơi quanh đấy rồi
vác nốt nửa con bò về. Nghĩ bụng: "Con
hổ này to lắm. Hay còn ngưởi thấy mùi hôi
quanh đây. Ta về lấy súng đi tìm, thế nào
cũng bắn được".
Về đến nhà, A Phủ lẳng vai ném nửa con bò
xuống gốc đào trước cửa. Pá Tra bước ra
hỏi:
- Mất mấy con bò?
A Phủ trả lời tự nhiên:
- Tôi về lấy súng. Thế nào cũng bắn được.
Con hổ này to lắm.
- Pá Tra hất tay, nói:
- Quân ăn cướp mất bò tao. A Sử đâu! Ðem
súng đi lấy con hổ về.
Rồi Pá Tra quay lại, bảo A Phủ:
- Mày ra ngoài kia, lấy vào đây một cái cọc,
một cuộn dây mây. Tao trói mày chỗ kia. Bao
giờ chúng nó bắn được con hổ về thì mày
khỏi phải chết. Nếu không bắn được con hổ
về thì tao cho mày đứng chết ở đấy.
A Phủ cãi:
- Tôi được con hổ ấy còn nhiều tiền hơn con
bò.
Pá Tra cười:
- Lấy cọc dây mây vào đây!ư
Không nói nữa, như con trâu đã đóng lên
tròng. A Phủ lẳng lặng ra vác chiếc cọc gỗ
rồi lấy cuộn dây mây trên gác bếp xuống. Tự
tay A Phủ đóng cọc xuống bên cột, Pá Tra
đẩy A Phủ vào chân cột, hai tay bắt ôm quặt
lên. Rồi dây mây cuốn từ chân lên vai, chỉ
còn cổ và đâu lúc lắc được.
Ðàn bà trong nhà, mỗi khi đi qua đều cúi
mặt. Không một ai dám hỏi. Cũng không một ai
dám nhìn ngang mặt.
Ðến đêm, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng
mây, nhích dãn dây trói một bên ta. Nhưng
trời cũng vừa sáng. Pá Tra quảng thêm một
vòng tròng lọng vào cổ. Thế là A Phủ không
cúi, không còn lắc được nữa.
A Sử và lĩnh dõng của thống lý đi đuổi,
mấy ngày không lùng bắt được con hổ. Thì
cũng mấy ngày A Phủ phải trói đứng góc nhà.
Ðằng kia, bếp lò bung ngô cao ngang đầu
người vẫn hừng hực đỏ rực. Môi hôm hai
buổi, người ta ra người vào ăn uống tấp
nập. A Phủ đứng nhắm mắt, cho tới đêm khuya.
Những đêm mùa đông
trên núi cao dài và buồn. Nếu không có bếp
lửa sưởi kia thì Mỵ cũng đến chết héo. Mỗi
đêm, Mỵ dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng,
không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy, Mỵ dậy ra bếp sưởi
một lúc thật lâu, các chị em trong nhà mới
bắt đầu ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lợn.
Mỗi đêm, nghe tiếng phù phù thổi bếp, a Phủ
lại mở mắt. Ngọn lửa bùng lên, cùng lúc ấy
Mỵ cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng
trừng. Mới biết nó còn sống. Mấy đêm nay
như thế.
Nhưng Mỵ vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay.
nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết đấy,
cũng thế thôi. Mỵ vẫn trở dậy, vẫn sưởi,
Mỵ chỉ biết, chỉ còn ở với ngọn lửa. Có
đêm A Sử chợt về thấy Mỵ ngồi đấy, A Sử
ngứa tay đánh Mỵ ngã xuống cửa bếp. Nhưng
đêm sau Mỵ vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà ngủ yên. Mỵ trở
dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên.
Mỵ trông sang thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở.
Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hóm má
đã xám đen. Thấy tình cảnh thế, Mỵ chợt
nhớ đêm năm trước, A Sử trói Mỵ, Mỵ cũng
phải trói đứng thế kia. Nước mắt chảy xuống
miệng, xuống cổ, không biết lau đi được.
Trời ơi nó bắt trói đứng người ta đến
chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. Nó đã
bắt trói đến chết người đàn bà ngày
trước ở cái nhà này. Chúng nó thật độc
ác. Chỉ đêm mai là người ta chết, chết đau,
chết đối, chết rét, phải chết. Ta là thân
phận đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi,
chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây
thôi... Người kia việc gì mà phải chết. A
Phủ ... Mỵ phảng phất nghĩ như vậy.
Ðám than đã vạc hẳn
lửa. Mỵ không thổi cũng không đứng lên. Mỵ
nhớ lại đời mình. Mỵ tưởng tượng như có
thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng trốn
được rồi, lúc đó bố con thống lý sẽ đổ
là Mỵ đã cởi trói cho nó, Mỵ liền phải
trói thay vào đấy. Mỵ chết trên cái cọc ấy.
Nghĩ thế, nhưng làm sao Mỵ cũng không thấy
sợ...
Trong nhà tối bưng, Mỵ rón rén bước lại, A
Phủ vẫn nhắm mắt. Nhưng Mỵ tưởng như A Phủ
biết có người bước lại... Mỵ rút con dao
nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ thở phè
từng hơi như rắn thở, không biết mê hay
tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây
trói ở người A Phủ thì Mỵ cũng hốt
hoảng. Mỵ chỉ thì thào được một tiếng
"Ði đi..." rồi Mỵ nghẹn lại. A Phủ
khuỵu xuống không bước nổi.
Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A
Phủ lại quật sức vung lên, chạy.
Mỵ đứng lặng trong bóng tối.
Trời tối lắm. Mỵ vẫn băng đi. Mỵ đuổi kịp
A Phủ, đã lăn, chạy xuống tới lưng dốc.
Mỵ thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho...
A Phủ chưa kịp nói, Mỵ lại vừa thở vừa nói:
- ở đây chết nất,
A Phủ chợt hiểu.
Hai người đỡ nhau lao xuống dốc núi.
Hai người đi ròng rã
hơn một tháng. Họ truyền trên những triền
núi cao ngất, lốm đốm nhà, thấp thoáng
ruộng, đất đỏ, suối trắng tinh, trông thấy
trước mặt mà đi mấy ngày chưa tới. Từ Hồng
Ngài xuống qua vùng ruộng ở Mường Quài của
người thái, từ Nậm Cất sang Chống Chia, từ
Chống Chia qua dốc Lùng Chùng Phủng lại trở
về bờ sông Ðà phía giữa châu Phù Yên sang
châu Mai Sơn, chỗ đầu mối giao thông của
ngoài vùng tự do vào khu du kích của các dân
tộc Thái, Dao, Mèo bên kia sống. Rồi họ về
trong những làng Mông Ðỏ hẻo lánh vùng Phìa
Sa. Xa lắm rồi, thống lý không đuổi được
nữa... họ nghĩ thế.
Ròng rã, ăn rau rừng, củ
nâu, mộc nhĩ, vừa hết mùa mưa, tới Phìn Sa.
Hai người tới Phìn Sa, ở đấy không ai biết
đấy là A Phủ, người ở nợ nhà thống lý.
Người ta ngỡ đấy là hai vợ chồng trong một
nhà đông anh em ở bên kia dốc Lùng Chùng
Phủng, nương vỡ được ít mà miệng ăn thì
nhiều, anh em, vợ chồng phải chia ra, đem nhau
đi tìm ăn nơi khác.
Hai người nhận là vợ chồng. Mà thật thì A
Phủ và Mỵ đã thành vợ chồng.
Lên đầu trang