Nam Cao
Lão Hạc
Lão Hạc thổi cái mồi rơm, châm đóm. Tôi đã
thông điếu và bỏ thuốc rồi.
Tôi mời lão hút trước. Nhưng lão không nghe...
- Ông giáo hút trước đi.
Lão đưa đóm cho tôi...
- Tôi xin cụ...
Và tôi cầm lấy đóm, vo viên một điếu. Tôi rít
một hơi xong, thông điếu
rồi mới đặt vào lòng lão. Lão bỏ thuốc, nhưng
chưa hút vội. Lão cầm lấy
đóm, gạt tàn, và bảo :
- Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ !
Lão đặt xe
điếu, hút. Tôi vừa thở khói, vừa gà gà đôi
mắt của người say,
nhìn lão, nhì để làm ra vẻ chú ý đến câu nói
của lão đó thôi. Thật ra thì
trong lòng tôi rất dửng dưng. Tôi nghe câu ấy
đã nhàm rồi. Tôi lại biết
rằng : lão nói là nói để có đấy thôi ; chẳng
bao giờ lão bán đâu. Vả lại,
có bán thật nữa thì đã sao ? Làm quái gì một
con chó mà lão có vẻ băn
khoăn quá thế..
Lão hút xong,
đặt xe điếu xuống, quay ra ngoài, thở khói. Sau
một điếu
thuốc lào, óc người ta tê dại đi trong một nỗi
đê mê nhẹ nhõm. Lão Hạc
ngồi lặng lẽ, hưởng chút khoái lạc con con ấy.
Tôi cũng ngồi lặng lẽ. Tôi
nghĩ đến mấy quyển sách quý của tôi. Hồi bị
ốm nặng ở Sài Gòn tôi bán gần
hết cả áo quần, nhưng vẫn không chịu bán cho ai
một quyển. ốm dậy, tôi về
quê, hành lý chỉ vẻn vẹn có một cái va-ly đựng
toàn những sách. Ôi những
quyển sách rất nâng niu ! Tôi đã nguyện giữ
chúng suốt đời, để lưu lại cái
kỷ niệm một thời chăm chỉ, hăng hái và tin
tưởng đầy những say mê đẹp và
cao vọng : mỗi lần mở một quyển ra, chưa kịp
đọc dòng nào, tôi đã thấy bừng
lên trong lòng tôi như một rạng đông, cái hình
ảnh tuổi hai mươi trong
trẻo, biết yêu và biết ghét... Nhưng đời người
ta không chỉ khổ một lần.
Mỗi lần cùng đường đất sinh nhai, và bán hết
mọi thứ rồi, tôi lại phải bán
đi một ít sách của tôi. Sau cùng chỉ còn có
năm quyển, tôi nhất định, dù
có phải chết cũng không chịu bán. ấy thế mà
tôi cũng bán ! Mới cách đây có
hơn một tháng thôi, đứa con nhỏ của tôi bị
chứng lỵ gần kiệt sức... Không
! Lão Hạc ơi ! Ta có quyền giữ cho ta một tý gì
đâu ? Lão quý con chó vàng
của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm
quyển sách của tôi...
Tôi nghĩ thầm trong bụng thế. Còn Lão Hạc, lão
nghĩ gì ? Ðột nhiên lão
bảo tôi :
- Này ! Thằng cháu nhà tôi, đến một năm nay,
chẳng có giấy má gì đấy, ông
giáo ạ !
à ! Thì ra lão
đang nghĩ đến thằng con lão. Nó đi cao su năm
sáu năm rồi.
Hồi tôi mới về, nó đã hết một hạn công-ta.
Lão Hạc, đem thư của nó sang,
mượn tôi xem. Nhưng nó xin đăng thêm hạn nữa...
Lão vội cắt nghĩa cho tôi
hiểu tại sao lão đang nói chuyện con chó, lại
nhảy vọt sang chuyện thằng
con như vậy :
- Con chó là của cháu nó mua đấy chứ !... Nó mua
về nuôi, định để đến lúc
cưới vợ thì giết thịt...
ấy ! Sự đời lại
cứ thường như vậy đấy. Người ta đã định rồi
chẳng bao giờ
người ta làm được. Hai đứa mê nhau lắm. Bố mẹ
đứa con gái biết vậy, nên
cũng bằng lòng gả. Nhưng họ thách nặng quá :
nguyên tiền mặt phải một trăm
đồng bạc, lại còn cau, còn rượu... cả cưới
nữa thì mất đến cứng hai trăm
bạc. Lão Hạc không lo được. ý thằng con lão,
thì nó muốn bán vườn, cố lo
cho bằng được. Nhưng lão không cho bán. Ai lại
bán vườn đi mà lấy vợ ? Vả
lại bán vườn đi, thì cưới vợ về, ở đâu ?
Với lại, nói cho cùng nữa, nếu
đằng nhà gái họ cứ khăng khăng đòi như vậy,
thì dẫu có bán vườn đi cũng
không đủ cưới. Lão Hạc biết vậy đấy, nhưng
cũng không dám xẵng. Lão tìm
lời lẽ giảng giải cho con rai hiểu. Lão khuyên nó
hãy dằn lòng bỏ đám này,
để rồi gắng lại ít lâu, xem có đám nào khá
mà nhẹ tiền hơn sẽ liệu ; chẳng
lấy đứa này thì lấy đứa khác ; làng này đã
chết hết con gái đâu mà sợ ?...
Lạy trời lạy đất ! Nó cũng là thằng khá, nó
thấy bố nói thế thì nó thôi
ngay, nó không đả động đến việc cưới xin gì
nữa. Nhưng nó có vẻ buồn. Và
lão biết nó vẫn theo đuổi con kia mãi. Lão
thương con lắm. Nhưng biết làm
sao được ?... Tháng mười năm ấy, con kia đi lấy
chồng ; nó lấy con trai
một ông phó lý, nhà có của. Thằng con lão sinh
phẫn chí. Ngay mấy hôm sau,
nó ra tỉnh đến sở mộ phu, đưa thẻ, ký giấy xin
đi làm đồn điền cao su...
Lão rân rấn
nước mắt, bảo tôi :
- Trước khi đi, nó còn cho tôi ba đồng bạc, ông
giáo ạ ! Chả biết nó gửi
thẻ xong, vay trước được mấy đồng, mà đưa về
cho tôi ba đồng. Nó đưa cho
tôi ba đồng mà bảo : "Con biếu thầy ba đồng
để thỉnh thoảng thầy ăn quà ;
xưa nay con ở nhà mãi cũng chẳng nuôi được bữa
nào, thì con đi cũng chẳng
phải lo ; thầy bòn vườn đất với làm thuê làm
mướn thêm cho người ta thế
nào cũng đủ ăn ; con đi chuyến này cố chí làm
ăn, bao giờ có bạc trăm con
mới về, không có tiền, sống khổ sống sở ở cái
làng này, nhục lắm !...".
Tôi chỉ còn biết khóc, chứ còn biết làm sao
được nữa ? Thẻ của nó, người
ta giữ. Hình của nó, người ta đã chụp rồi. Nó
lại đã lấy tiền của người ta.
Nó là người của người ta rồi, chứ đâu còn là
con tôi ?...
*
* *
Lão Hạc ơi ! Bây
giờ thì tôi hiểu tại sao lão không muốn bán con
chó vàng
của lão. Lão chỉ còn một mình nó để làm
khuây. Vợ lão chết rồi. Con lão đi
bằn bặt. Già rồi mà ngày cung như đêm, chỉ thui
thủi một mình thì ai mà
chả phải buồn ? Những lúc buồn, có con chó làm
bạn thì cũng đỡ buồn một
chút. Lão gọi nó là cậu Vàng như một bà hiếm
hoi gọi đứa con cầu tự. Thỉnh
thoảng không có việc gì làm, lão lại bắt rận
cho nó cùng ăn. Những buổi
tối, khi lão uống rượu, thì nó ngồi ở dưới
chân. Lão cứ nhắm vài miếng lại
gắp cho nó một miếng như người ta gắp thức ăn
cho con trẻ. Rồi lão chửi
yêu nó, lão nói với nó như nói với một đứa
cháu bé về bố nó. Lão bảo nó
thế này :
- Cậu có nhớ bố cậu không ? Hả cậu Vàng ? Bố
cậu lâu lắm không có thư về.
Bố cậu đi có lẽ được đến ba năm rồi đấy...
Hơn ba năm... Có đến ngót bốn
năm... Không biết cuối năm nay bố cậu có về
không ? Nó mà về, nó cưới vợ,
thì nó giết cậu. Liệu hồn cậu đấy !
Con chó vẫn hếch
mồm lên nhìn chẳng lộ một vẻ gì ; lão lừ mắt
nhìn trừng
trừng vào mắt nó, to tiếng doạ :
- Nó giết mày đấy ! Mày có biết không ? Ông cho
thì bỏ bố !
Con chó tưởng chủ mắng, vẫy đuôi mừng, để lấy
lại lòng chủ. Lão Hạc nạt
to hơn nữa :
- Mừng à ? Vẫy đuôi à ? Vẫy đuôi thì cũng
giết ! Cho cậu chết !
Thấy lão sừng sộ
quá, con chó vừa vẫy đuôi, vừa chực lảng. Nhưng
lão vội
nắm lấy nó, ôm đầu nó, đập nhè nhẹ vào lưng
nó và dấu dí :
- à không ! à không ! Không giết cậu Vàng đâu
nhỉ!... Cậu Vàng của ông
ngoan lắm ! Ông không cho giết... Ông để cậu
Vàng ông nuôi...
lão buông nó ra để nhấc chén, ghé lên môi
uống. Lão ngẩn mặt ra một chút,
rồi bỗng nhiên thở dài. Rồi lão lẩm bẩm tính.
Ðấy là lão tính tiền bòn
vườn của con...
Sau khi thằng con
đi, lão tự bảo rằng : "Cái vườn là của con
ta. Hồi còn
mồ ma mẹ nó, mẹ nó cố thắt lưng buộc bụng, dè
sẻn mãi, mới để ra được năm
mươi đồng bạc tậu. Hồi ấy, mọi thức còn rẻ
cả... Của mẹ nó tậu, thì nó
hưởng. Lớp trước nó đòi bán, ta không cho bán
là ta có ý giữ cho nó, chứ
có phải giữ để ta ăn đâu ? Nó không có tiền
cưới vợ, mới chịu về. Ta bòn
vườn của nó, cũng nên để ra cho nó ; đến lúc
nó về, nếu nó không đủ tiền
cưới vợ thì ta thêm vào với nó, nếu nó có đủ
tiền cưới vợ, thì ta cho vợ
chồng nó để có chút vốn mà làm ăn...".
Lão tự bảo lão như thế, và lão làm
đúng như thế. Lão làm thuê để kiếm ăn. Hoa
lợi của khu vườn được bao nhiêu,
lão để riêng ra. Lão chắc mẩm thế nào đến lúc
con lão về, lão cũng có được
một trăm đồng bạc...
Lão lắc đầu
chán nản, bảo tôi :
- ấy thế mà bây giờ hết nhẵn, ông giáo ạ ! Tôi
chỉ ốm có một trận đấy
thôi. Một trận đúng hai tháng, mười tám ngày,
ông giáo ạ ! Hai tháng mười tám
ngày đã không làm ra được một xu, lại còn
thuốc, lại còn ăn... ông thử
tính ra xem bao nhiêu tiền vào đấy ?...
Sau trận ốm, lão
yếu người đi ghê lắm. Những công việc nặng
không làm
được nữa. Làng mất vè sợi, nghề vải đành
phải bỏ. Ðàn bà rỗi rãi nhiều.
Còn tí việc nhẹ nào, họ tranh nhau làm mất cả.
Lão Hạc không có việc. Rồi
lại bão. Hoa mầu bị phá sạch sành sanh. Từ ngày
bão đến nay, vườn lão chưa
có một tí gì bán. Gạo thì cứ kém mãi đi. Một
lão với một con chó, mỗi ngày
ba hào gạo, mà gia sự vẫn còn đói deo đói
dắt...
- Thì ra cậu Vàng cậu ấy ăn khoẻ hơn cả tôi
ông giáo ạ. Mỗi ngày cậu ấy
ăn thế, bỏ rẻ cũng mất hào rưỡi, hai hào đấy.
Cứ mãi thế này thì tôi lấy
tiền đâu mà nuôi được ? Mà cho cậu ấy ăn ít
thì cậu ấy già đi, bán hụt
tiền, có phải hoài không ? Bây giờ cậu ấy béo
trùng trục, mua đắt, người
ta cũng thích...
Lão ngắt lại một phút, rồi tắc lưỡi :
- Thôi thì bán phắt đi ! Ðỡ được đồng nào,
hay đồng ấy. Bây giờ tiêu xu
cũng là tiêu vào tiền của cháu. Tiêu lắm chỉ
chết nó. Tôi bây giờ có làm
gì được đâu ?
*
* *
Hôm sau lão Hạc
sang nhà tôi. Vừa thấy tôi, lão báo ngay :
- Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ !
- Cụ bán rồi ?
- Bán rồi ! Họ vừa bắt xong.
Lão cố làm ra vẻ
vui vẻ. Nhưng trông lão cười như mếu và đôi
mắt lão ầng
ậng nước, tôi muốn ôm choàng lấy lão mà oà
lên khóc. Bây giờ thì tôi không
xót năm quyển sách của tôi quá như trước nữa.
Tôi chỉ ái ngại cho lão Hạc.
Tôi hỏi cho có chuyện :
- Thế nó cho bắt à ?
Mặt lão đột
nhiên co dúm lại. Những vết nhăn xô lại với
nhau, ép cho nước
mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và
cái miệng móm mém của lão mếu
như con nít. Lão hu hu khóc...
- Khốn nạn... Ông giáo ơi ! Nó có biết gì đâu
! Nó thấy tôi gọi thì chạy
ngay về, vẫy đuôi mừng. Tôi cho nó ăn cơm. Nó
đang ăn thì thằng Mục nấp
trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau
nó dốc ngược nó lên. Cứ
thế là thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chúng
nó chỉ loay hoay một lúc
đã trói chặt cả bốn chân nó lại. Bấy giờ cu
cậu mới biết là cu cậu chết !
Này ! Ông giáo ạ ! Cái giống nó cũng khôn ! Nó
cứ làm in như nó trách tôi ;
nó kêu ư ử, nhìn tôi như muốn bảo tôi rằng :
"A ! Lão già tệ lắm ! Tôi ăn
ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế
này ?". Thì ra tôi già bằng
này tuổi đầu rồi còn đánh lừa một con chó, nó
không ngờ tôi nỡ tâm lừa nó !
Tôi an ủi lão :
- Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả biết đâu !
Vả lại ai nuôi chó mà chả bán
hay giết thịt ? Ta giết nó chính là hoá kiếp cho
nó đấy, hoá kiếp để cho
nó làm kiếp khác.
Lão chua chát bảo :
- Ông giáo nói phải ! Kiếp cho chó là kiếp khổ
thì ta hoá kiếp cho nó để
nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn một
chút... kiếp người như
kiếp tôi chẳng hạn...
Tôi bùi ngùi nhìn lão, bảo :
- Kiếp ai cũng thế thôi, cụ ạ ! Cụ tưởng tôi
sung sướng hơn chăng ?
- Thế thì không biết nếu kiếp người cũng khổ
nốt thì ta nên làm kiếp gì
cho thật sướng ?
Lão cười va ho sòng sọc. Tôi nắm lấy cái vai
gầy của lão, ôn tồn bảo :
- Chẳng kiếp gì sung sướng thật, nhưng có cái
này là sung sướng : bây giờ
cụ ngồi xuống phản này chơi, tôi đi luộc mấy
củ khoai lang, nấu một ấm
nước chè tươi thật đặc ; ông con mình ăn
khoai, uống nước chè, rồi hút
thuốc lào... Thế là sướng.
- Vâng ! Ông giáo dạy phải ! Ðối với chúng mình
thì thế là sung sướng.
Lão nói xong lại cười đưa đà. Tiếng cười
gượng nhưng nghe đã hiền hậu lại.
Tôi vui vẻ bảo :
- Thế là được, chứ gì ? Vậy cụ ngồi xuống
đây, tôi đi luộc khoai, nấu
nước.
- Nói đùa thế, chứ ông giáo cho để khi khác
?...
- Việc gì còn phải chờ khi khác ?... Không bao
giờ nên hoãn sự sung sướng
lại. Cụ cứ ngồi xuống đây ! Tôi làm nhanh
lắm...
- Ðã biết, nhưng tôi còn muốn nhờ ông một
việc...
Mặt lão nghiêm trang lại...
- Việc gì thế, cụ ?
- Ông giáo để tôi nói... Nó hơi dài dòng một
tí.
- Vâng, cụ nói.
- Nó thế này, ông giáo ạ !
Và lão kể. Lão kể nhỏ nhẹ và dài dòng thật.
Nhưng đại khái có thể rút vào
hai việc. Việc thứ nhất : Lão thì già, con đi
vắng, vả lại nó cũng còn dại
lắm, nếu không có người trông nom cho thì khó
mà giữ được vườn đất để làm
ăn ở làng này. Tôi là người nhiều chữ nghĩa,
nhiều lý luận người ta kiêng
nể, vậy lão muốn nhờ tôi cho lão gửi ba sào
vườn của thằng con lão, lão
viết văn tự nhượng cho tôi để không ai còn tơ
tưởng dòm nhó đến ; khi nào
con lão về thì nó sẽ nhận vườn làm, nhưng văn
tự cứ để tên tôi cũng được,
để thế để tôi trông coi cho nó... Việc thứ hai
: Lão già yếu lắm rồi,
không biết sống chết lúc nào : con không có nhà,
lỡ chết không biết ai
đứng ra lo cho được ; để phiền cho hàng xóm
thì chết không nhắm mắt : lão
còn được hăm nhăm đồng bạc với năm đồng vừa
bán chó là ba mươi đồng bạc,
muốn gửi tôi để lỡ có chết thì tôi đem ra,
nói với hàng xóm giúp, gọi là
của lão có tí chút, còn bao nhiêu đành nhờ
hàng xóm cả...
Tôi bật cười
bảo lão :
- Sao cụ lo xa quá thế ? Cụ còn khoẻ lắm, chưa
chết đâu mà sợ ! Cụ cứ để
tiền ấy mà ăn, lúc chết hãy hay ! Tội gì bây
giờ nhịn đói mà tiền để lại ?
- Không, ông giáo ạ ! ¡n mãi hết đi thì đến
lúc chết lấy gì mà lo liệu ?
- Ðã đành rằng là thế, nhưng tôi bòn vườn
của nó bao nhiêu, tiêu hết cả.
Nó vợ con chưa có. Ngộ nó không lấy gì lo
được, lại bán vườn thì sao ?...
Tôi cắn rơm, cắn cỏ tôi lạy ông giáo ! Ông
giáo có nghĩ cái tình tôi già
nua tuổi tác mà thương thì ông giáo cứ cho tôi
gửi.
Thấy lão nằn nì
mãi, tôi đành nhận vậy. Lúc lão ra về, tôi còn
hỏi :
- Có đồng nào, cụ nhặt nhạnh đưa cho tôi cả
thì cụ lấy gì mà ăn ?
Lão cười nhạt bảo :
- Ðược ạ ! Tôi đã liệu đâu vào đấy... Thế
nào rồi cũng xong.
Luôn mấy hôm, tôi thấy lão Hạc chỉ ăn khoai.
Rồi thì khoai cũng hết. Bắt
đầu từ đấy, lão chế tạo được món gì, ăn
món ấy. Hôm thì lão ăn củ chuối,
hôm thì lão ăn sung luộc, hôm thì ăn rau má,
với thỉnh thoảng một vài củ
ráy, hay bữa trai, bữa ốc. Tôi nói chuyện lão
với vợ tôi. Thị gạt phắt đi :
- Cho lão chết ! Ai bảo lão có tiền mà chịu khổ
! Lão làm lão khổ chứ ai
làm lão khổ ! Nhà mình sung sướng gì mà giúp
lão ? Chính con mình cũng đói. ..
Chao ôi ! Ðối
với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm
mà hiểu họ,
thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện,
xấu xa, bỉ ối... toàn những
cớ để cho ta tàn nhẫn ; không bao giờ ta thấy họ
là những người đáng
thương ; không bao giờ ta thương... Vợ tôi không
ác, nhưng thị khổ quá rồi.
Một người đau chân có lúc nào quên được cái
chân đau của mình để nghĩ đến
một cái gì khác đâu ? Khi người ta khổ quá thì
người ta chẳng còn nghĩ gì
đến ai được nữa. Cái bản tính tốt của người
ta bị những nỗi lo lắng, buồn
đau ích kỷ che lấp mất. Tôi biết vây, nên tôi
chỉ buồn chứ không nỡ giận.
Tôi giấu giếm vợ tôi, thỉnh thoảng giúp ngấm
ngầm lão Hạc. Nhưng hình như
lão cũng biết vợ tôi không ưng giúp lão. Lão
cứ chối tất cả những cái gì
tôi cho lão. Lão từ chối một cách gần như là
hách dịch. Và lão cứ xa tôi
dần dần...
Lão không hiểu
tôi, tôi nghĩ vậy, và tôi càng buồn lắm. Những
người nghèo
nhiều tự ái vẫn thường như thế. Họ dễ tủi
thân nên rất hay chạnh làng. Ta
khó mà ở cho vừa ý họ... Một hôm, tôi phàn nàn
về việc ấy với binh Tư.
Binh Tư là một người láng giềng khác của tôi :
Hắn làm nghề ăn trộm nên
vốn không ưa lão Hạc bởi vì lão lương thiện
quá. Hắn bĩu môi và bảo :
- Lão làm bộ đấy ! Thật ra thì lão chỉ tâm
ngẩm thế, nhưng cũng ra phết
chứ chả vừa đâu. Lão vừa xin tôi một ít bả
chó...
Tôi trố to đôi mắt, ngạc nhiên. Hắn thì thầm :
- Lão bảo có con chó nhà nào cứ đến vườn nhà
lão... Lão định cho nó xơi
một bữa. Nếu trúng, lão với tôi uống rượu.
Hỡi ơi lão Hạc ! Thì ra đến lúc cùng lão cũng
có thể làm liều như ai
hết... Một người như thế ấy !... Một người đã
khóc vì trót lừa một con chó
!... Một người nhịn ăn để tiền lại làm ma, bởi
không muốn liên luỵ đến
hàng xóm, láng giềng.. Con người đáng kính ấy
bây giờ cũng theo gót binh
Tư để có ăn ư ? Cuộc đời quả thật cứ một
ngày một thêm đáng buồn...
*
* *
Không ! Cuộc đời
chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn
nhưng lại đáng
buồn theo một nghĩa khác. Tôi ở nhà binh Tư về
được một lúc lâu thì thấy
những tiếng nhốn nháo ở bên nhà lão Hạc. Tôi
mải mốt chạy sang. Mấy người
hàng xóm đến trước tôi đang xôn xao ở trong
nhà. Tôi xồng xộc chạy vào.
Lão Hạc đang vật vã ở trên giường, đầu tóc
rũ rượi, quần áo xộc xệch, hai
mắt long sòng sọc. Lão tru tréo, bọt mép sùi ra,
khắp người chốc chốc lại
bị giật mạnh một cái, giật nẩy lên. Hai người
đàn ông lực lưỡng phải ngồi
đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ
đồng hồ rồi mới chết. Cái chết
thật là dữ dội. Chẳng ai hiểu lão chết vì bệnh
gì mà đau đớn và bất thình
lình như vậy. Chỉ có tôi với Binh Tư hiểu.
Nhưng nói ra làm gì nữa ! Lão
Hạc ơi ! Lão hãy yên lòng mà nhắm mắt ! Lão
đừng lo gì cho cái vườn của
lão. Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Ðến khi con trai
lão về, tôi sẽ trao lại
cho hắn và bảo hắn : "Ðây là cái vườn mà
ông cụ thân sinh ra anh đã cố để
lại cho anh trọn vẹn : cụ thà chết chứ không
chịu bán đi một sào..."
Lên đầu
trang
|